Top 4 làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Nam Định

0
2772
Vật Phẩm Phong Thủy

Mỗi cùng dất , mỗi cùng miền đều có những vật liệu hay lợi thế để phát triển lợi thế của mình . Còn với Nam Định , những ngành nghề truyền thống nào còn được duy trì đến hiện nay , chúng ta cùng đi tìm hiểu nhé.

1. Làng sơn mài Cát Đằng
Nói đến làng quê từng có sản phẩm sơn mài nổi tiếng nhất miền Bắc phải nói đến làng quê sơn mài Cát Đằng ở xã Yên Tiến (huyện Ý Yên, Nam Định) – một làng nghề có bề dày lịch sử rất lâu đời. Người ta nói rằng, các đồ sơn mài vẫn dùng để trang trí nội, ngoại thất trong các lăng tẩm, các cung đình xưa ở Huế, Đà Nẵng, Hà Nội… chủ yếu là do bàn tay tài hoa của các nghệ nhân làng Cát Đằng làm ra.

Cát Đằng nằm trên vùng đất kẹp giữa hai trục đường bộ và đường sắt xuyên Việt. Theo sử sách ghi lại, nghề sơn mài làng Cát Đằng có từ khoảng thể kỷ 11, do hai ông tên là Ngô Dũng và Đinh Ba (từng làm quan trong triều thời vua Đinh) đến làng ở và truyền dạy nghề cho trai tráng trong làng. Ngày giỗ ông Tổ nghề được tổ chức linh đình vào rằm tháng giêng hàng năm. Cũng như các làng quê Việt Nam khác, Cát Đằng cũng đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhưng nghề sơn mài ở đây vẫn được gìn giữ và ngày một phát triển. Trước đây, người ta vẫn thấy hàng sơn mài chỉ được làm trên những tấm gỗ đã được chọn lựa rất kỹ, thì nay, người Cát Đằng đã sáng tạo thêm những sản phẩm từ việc chắp nứa rồi đem sơn mài. So với gỗ, loại mặt hàng này vừa nhẹ, giá rẻ hơn, chất lượng đảm bảo, thu hút được nhiều khách hàng và chủ yếu để xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.

Tất nhiên, để có được sản phẩm chắp nứa sơn mài sớm “nổi danh” như thế cũng không phải đơn giản. Ngay từ việc chọn mua nứa, người thợ cũng phải chọn những cây nứa bánh tẻ, không quá non cũng không quá già. Khi đem về phải mang ngâm dưới nước ít nhất là 6 tháng để sản phẩm sau này không bị mối mọt, có độ bền lâu. Sau đó, đến khâu pha nứa, pha nan, vót và đánh bóng nan rồi người ta để nghiêng nan cẩn thận uốn chặt theo hình khuôn, rồi quết một lớp keo được pha chế bằng tạp chất sao cho không còn kẽ hở giữa các vòng nứa rồi mới đem mài miết đến khi sản phẩm nhẵn bóng và đạt được độ mỏng cần thiết mới thôi. Trước đây, riêng khâu mài phải làm bằng thủ công, thường mất ít nhất 3 tháng mới xong một sản phẩm như bình hoa, chậu cảnh, còn bây giờ đã có máy móc hiện đại, nên chỉ mất vài ba ngày hoặc một tuần là xong. Đặc biệt không được dùng nan cật, vì sản phẩm sẽ không đảm bảo độ bền, dẻo vốn có. Đến đây coi như khâu sơ chế thô đã hoàn thành. Những sản phẩm ấy tiếp tục được chuyển đến tay các nghệ nhân trang trí thêm đủ kiểu hoa văn cách điệu, pha màu rồi phun sơn thật đều lên sản phẩm. Theo như nhiều nghệ nhân trong làng, thì khâu pha chế và phun sơn là khó nhất. Bí quyết của làng nghề cũng được giữ kín ở đây, nếu không phải là trai làng thì không được truyền dạy. Đã có nhiều người ở nơi khác đến Cát Đằng học nghề nhưng họ vẫn không thể biết bí quyết pha trộn sơn, hay sản phẩm vừa được phun sơn bỗng gặp trời mưa thì phải xử lý thế nào để sơn không bị bay mất màu, đành phải chờ nắng rồi đem sơn lại, còn người Cát Đằng lại có thể giữ nguyên màu sơn ở bất cứ thời điểm hay hoàn cảnh nào. Nhiều nghệ nhân của làng đã ra các tỉnh ngoài để làm và mở các lớp dạy nghề sơn mài ở khắp nơi. Dù đi đâu, họ cũng sớm khẳng định sự tài hoa, khéo léo của nghệ nhân Cát Đằng.


2.Nghề chạm gỗ La Xuyên
Làng La Xuyên thuộc xã Yên Ninh, Huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, bên cạnh những cánh đồng lúa là những xưởng thợ chạm gỗ cùng hàng nghìn thợ thủ công đang ra sức phát huy nghề truyền thống.
Tới nay, không ai nhớ rõ nghề chạm gỗ ở La Xuyên có từ khi nào, chỉ biết rằng, tương truyền, khoảng thế kỷ X, dưới thời Đinh-Lê, La Xuyên đã trở thành làng nghề chạm gỗ có tiếng. Những người thợ La Xuyên không chỉ tạc tượng, chạm phù điêu mà còn đi khắp mọi miền đất nước tôn tạo, xây dựng đình, đền, chùa… Tuy nhiên, làm sập gụ, tủ chè, salon vẫn là công việc chính hàng ngày ở ngay tại làng: Sập gụ, tủ chè La Xuyên gọn, nhỏ, xinh xắn, phù hợp với không gian sống của người Việt. Hình chạm khắc trên bề mặt sản phẩm gỗ La Xuyên thật phong phú, độc đáo với những cảnh Bát Tiên quá hải, Văn Vương cầu hiền… các nhân vật gần gũi, giản dị như: Phúc, Lộc, Thọ,… Thợ gỗ La Xuyên luôn biết cách cải tiến mặt hàng cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.

Cụm công nghiệp La Xuyên rộng 6 ha, có hàng chục nhà xưởng sản xuất, có nhiều gian hàng trưng bày sản phẩm nối liền hai làng nghề truyền thống La Xuyên và Ninh Xá, hình thành một liên làng công nghiệp tạo thế phát triển trong cơ chế mới. Ởû đây từ sáng sớm đến chiều tà lúc nào cũng nhộn nhịp người và xe. Cả làng tập trung làm nghề gỗ chủ yếu ở 23 công ty, doanh nghiệp và một hợp tác xã.

Chúng tôi đến thăm và có dịp tìm hiểu doanh nghiệp gỗ mỹ nghệ Hiền Oanh, một trong những doanh nghiệp tiêu biểu của làng nghề La Xuyên. Anh Dương Văn Hiền, Giám đốc doanh nghiệp cho biết: trước kia, để đóng một bộ bàn ghế đúng thương hiệu “La Xuyên” mất tới vài tháng. Trong điều kiện kỹ thuật hiện nay, doanh nghiệp Hiền Oanh mỗi tháng có thể sản xuất được hàng trăm bộ bàn ghế bảo đảm các tiêu chuẩn về kỹ thuật, mỹ thuật không chỉ phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu sang Australia, Nhật Bản, Tây Ban Nha. Sản phẩm gỗ của người thợ La Xuyên ngày nay càng tinh xảo mang đậm dấu ấn truyền thống của một làng nghề luôn tìm cách khẳng định chỗ đứng của mình trên thương trường.


3.Làng đúc tượng đồng nổi tiếng Ý Yên
Hai làng đúc đồng Tống Xá và Vạn Điểm (thuộc huyện Ý Yên tỉnh Nam Định) được xem là một trong những cái nôi của nghề đúc đồng ở nước ta. Ngày nay, sản phẩm đúc đồng ở Tống Xá và Vạn Điểm không chỉ làm giàu cho làng, mà còn trở thành niềm tự hào lớn của cả thành Nam nhờ nhiều năm qua, hàng chục công trình-tác phẩm tượng tầm cỡ quốc gia đã được chính những nghệ nhân trong hai ngôi làng này thực hiện bằng chính hoa tay, tâm sức của họ. Chuyện về người đúc tượng đài chiến thắng Điện Biên
Năm 1987, Nguyễn Trọng Hạnh, thôi “chức” trợ lý giám đốc kiêm tổng kho trưởng Công ty Xuất nhập khẩu Ý Yên (Nam Định), và tổ chức thu nhận công nhân để thành lập Công ty Xây dựng Tiến Thắng. Nhưng rồi mọi kế hoạch đổ vỡ khi anh chạy theo “mốt” làm tượng Phật giả cổ. Năm 1991, anh bắt đầu mở xưởng ở làng, hễ ở đâu có nghề đúc đồng truyền thống là anh tìm tới, từ Ngũ Xã (Hà Nội) đến Đại Bái (Bắc Ninh), Ba Chè (Thanh Hóa), rồi đến Huế. Anh mua một số tượng mẫu để học kinh nghiệm.

Khi đã luyện được tay nghề làm tượng Phật, anh bắt đầu theo đuổi đúc các bức tượng nghệ thuật. Đến nhà ai chơi, thấy bức tượng đẹp anh đều mượn về đúc thử. Anh tự nguyện đi đúc tượng thuê cho nhiều nhà điêu khắc nổi tiếng như Tạ Quang Bạo, Minh Đỉnh, Tạ Duy Đoán, Lê Liên, Nguyễn Chi Lăng, Kim Xuân… Ngoài ra, anh còn học ở các di tích lịch sử, thấy ở đâu có nhiều đồ thờ đẹp, cổ kính anh đều nghiên cứu cho đến khi thuộc làu từng chi tiết, hoa văn.

Năm 2003, Công ty Mỹ thuật Trung ương giao cho Nguyễn Trọng Hạnh đúc tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ nặng 220 tấn, cao trên 12m. Đối với Hạnh, đó là một niềm vinh dự lớn trong đời. Anh khóa chặt cửa xưởng đúc, suốt 3 tháng liền không ra ngoài. Trên 50 thợ cùng vào cuộc. Tượng quá lớn, không thể đúc khuôn liền, anh nghĩ cách cắt rời khuôn thành 12 khúc rồi đúc lần lượt. Tám lò nung, trên đặt bốn cái nồi nấu đồng lúc nào cũng sôi sùng sục. Hạnh đứng trên giàn giáo chỉ huy. Bốn cần cẩu loại 25 tấn và 50 tấn đặt ở bốn góc khuôn để rót đồng.

Cuối cùng, bức tượng lớn cũng hoàn thiện. Cả một đoàn xe được huy động mới vận chuyển được công trình của Hạnh lên Điện Biên Phủ, dựng trên đỉnh đồi D1 trong dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên.

Và những tác phẩm mang tầm lịch sử, thời đại

Thuở xưa, 2 làng Tống Xá và Vạn Điểm chỉ đúc những mặt hàng đơn giản như đồ thờ cúng, đỉnh đồng, lư hương. Đến nay, sản phẩm của họ ngày càng đa dạng, tinh xảo hơn với những bức tượng Phật, danh nhân, lãnh tụ dân tộc. Đó là những công trình nặng hàng chục, hàng trăm tấn, thể hiện tinh thần, ý nghĩa lịch sử, tầm vóc thời đại…

Cụm tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ cao 12,6m, nặng trên 200 tấn, chỉ là một trong nhiều tác phẩm quy mô lớn của người Ý Yên. Gần đây, các nghệ nhân ở Tống Xá, Vạn Điểm cũng đã đúc rất thành công bức tượng Phật Tổ Như Lai, nặng 30 tấn, hiện tọa lạc trên đỉnh núi Sóc Sơn (Hà Nội) và tượng Tam Thế đặt tại khu du lịch Tràng An (Hoa Lư, Ninh Bình).

Đầu năm 2005, các nghệ nhân đúc đồng Ý Yên cũng đã bắt tay đúc tượng Quốc mẫu Âu Cơ và các vị Lạc tướng, Lạc hầu tại Khu di tích đền Hùng (Phú Thọ) cao 1,65m.

Nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, cũng lại chính những nghệ nhân tài ba của Ý Yên được mời đúc bức tượng vua Lý Thái Tổ nặng trên 40 tấn.

Gần đây nhất, cuối tháng 12-2005, để chuẩn bị cho Lễ khai ấn đầu Xuân Bính Tuất, các nghệ nhân đúc đồng tài ba ở làng Tống Xá lại được chọn lựa, giao phó thực hiện đúc tạc 14 bức tượng Hoàng đế nhà Trần (mỗi bức nặng gần 1 tấn), hiện đặt tại đền Trùng Hoa thuộc khu di tích lịch sử-văn hóa đền Trần (ngoại vi TP Nam Định).

Để làm được 14 pho tượng trên, Công ty TNHH cơ khí đúc Thắng Lợi đã huy động tới 50 thanh niên khỏe mạnh cùng các nghệ nhân thâm niên của làng. Dưới bàn tay điêu luyện, rắn rỏi của các nghệ nhân, những dòng họa tiết, hoa văn trên thân 14 bức tượng hiện rõ một cách sinh động, diễn tả đúng sự uy nghi, đường hoàng của một vương triều thịnh trị trong lịch sử, đã 3 lần chiến thắng giặc Nguyên-Mông vào thế kỷ 13.

Sẽ đưa đồ đồng vượt đại dương

Nghề đúc đồng ở Tống Xá, Vạn Điểm gắn với một truyền thuyết. Chuyện rằng, cách đây gần 900 năm, tại Phủ Yên Khánh (nay thuộc tỉnh Ninh Bình), có ông Nguyễn Chí Thành ngay từ nhỏ đã xuất gia theo hầu Thiền sư Giác Không. Ông là người học rất giỏi, đi nhiều nơi, đem học vấn dạy cho mọi người.

Trong một lần qua Tống Xá, ông đã dạy cho dân làng cách làm khuôn để đúc đồng. Nhiều thế kỷ đã trôi qua, lịch sử cũng nhiều thăng trầm, dâu bể, nhưng nghề đúc đồng vẫn trường tồn như chính chất liệu đanh rắn của nó. Để nhớ công lao của ông, dân làng đã lập đền thờ. Hàng năm, vào giữa tháng 2 âm lịch, làng mở hội để tưởng nhớ công lao người đã truyền nghề, đem lại sự nghiệp cho làng.

Bây giờ trở về Tống Xá, Vạn Điểm, từ tinh mơ đến tận sẩm tối, đâu đâu cũng gặp hình ảnh những bếp lò đỏ rực lửa. Thật không ngờ, nghề đúc đồng đã nhiều vất vả, hiểm nguy lại cần phải thật tỉ mỉ, tinh xảo mới tạo ra được sản phẩm hoàn hảo. Người thợ đúc phải trải qua rất nhiều công đoạn, từ cách chọn đất xây lò, nhóm lửa, chọn đồng đến làm khuôn, nấu chảy các mẻ đồng… Tất cả phải được thực hiện thận trọng, chuẩn xác để đảm bảo cho sản phẩm không bị vênh và co ngót.

Theo nghệ nhân trẻ Nguyễn Trọng Hạnh, công đoạn quan trọng nhất và cũng quyết định nhất trong quá trình sản xuất là lúc rót đồng vào khuôn. “Gần như người thợ gửi gắm cả tâm hồn, sức lực của mình vào tác phẩm”. Anh bảo, thời khắc ấy, một thói quen đã thành phong tục là người thợ đúc đồng nào cũng phải thành kính đốt một bó nhang xin linh nghiệm trước tổ tiên và cụ tổ nghề, để cầu mong cho sản phẩm làm ra đạt về hình thức, chất lượng, mang màu sắc tốt, có hồn.

Anh Dương Bá Tân, một nghệ nhân trẻ, đã được phong “bàn tay vàng” ở làng Vạn Điểm, cũng tâm sự: “Điều quan trọng và khó khăn đối với người thợ đúc đồng là làm được những sản phẩm có hồn, sinh động. Bởi vậy, phải biết yêu nghề, phải biết thổi cái nhiệt huyết của mình vào sản phẩm và đừng nghĩ rằng làm ra sản phẩm chỉ vì tiền”.

Khởi nghiệp từ nguồn vốn chỉ có vài trăm ngàn đồng, nhưng đến nay, Dương Bá Tân đã trở thành chủ một doanh nghiệp chuyên đúc đồng. Sản phẩm đồ đồng giả cổ của công ty anh đã có mặt ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Đầu năm 2006, anh đã chuẩn bị lô hàng khá lớn để xuất khẩu ra nước ngoài. Đưa đồ đồng “made in Ý Yên” ra nước ngoài là một hoạt động mở đường cho tiềm năng về đúc đồng của Nam Định.

Cũng theo anh Tân, hiện nay ở huyện Ý Yên đã xuất hiện khá nhiều công ty, cơ sở đúc đồng với những cái tên khá nổi danh trong làng đúc đồng cả nước như Công ty TNHH cơ khí đúc Thắng Lợi, Công ty Tân Tiến, cơ sở đúc Vũ Duy Thuấn…


4.Nón lá Nghĩa Châu
Xã Nghĩa Châu (Nghĩa Hưng) từ lâu đã nổi tiếng với nghề làm nón lá truyền thống. Hình ảnh các bà, các chị túm năm tụm ba bên gốc tre làng chuyện trò vui vẻ, tay thoăn thoắt khâu nón… Rồi cảnh chợ Đào Khê náo nhiệt, đông vui với la liệt những lá nón, mo tre, vành nón, búi cước, len đủ màu và những chồng nón trắng lấp loá dưới nắng… Tất cả đẹp như một bức tranh quê.

Để tạo ra những chiếc nón thanh thoát, bền đẹp… ngoài sự khoé léo của đôi tay, người làm nón phải thật sự tài hoa và có óc thẩm mỹ cao. Lá nón mua về được tãi ra phơi nắng, hấp diêm sinh để lá có độ trắng ngà, không bị mốc khi gặp mưa. Xong công đoạn đó, người thợ đặt từng lá nón lên mặt lưỡi cày nung nóng, dùng búi giẻ vuốt cho lá phẳng ra, tay vuốt đều, không được nhanh quá hoặc chậm quá để tránh cho lá bị xém, ngả màu vàng hoặc không phẳng. Những lá nón làm xong được xếp lên khuôn, giữa 2 lớp lá lót một lượt mo nang lạng thật mỏng và được buộc cho chắc; sau đó tới công đoạn khâu. Những bàn tay thoăn thoắt luồn mũi kim lên, xuống đều đặn nhịp nhàng sao cho lỗ khâu thật khít. Người thợ khâu nón tài hoa thường có tài lẩn chỉ, khéo léo giấu những nút nối vào trong. Chiếc nón khi hoàn chỉnh vừa bền, vừa đẹp, soi lên trước ánh sáng mặt trời thấy kín đều. Nón được trang trí thêm hình hoa lá, chim muông phong phú, sinh động, phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của các thiếu nữ nông thôn. Nếu là nón cưới, phần trang trí nhất thiết phải có đôi chim câu ngậm dải lụa đào tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi.

Cuộc sống hiện đại ngày nay càng xuất hiện nhiều loại mũ, nón đa dạng về màu sắc, kiểu dáng, chất lượng nhưng nón lá vẫn gần gũi với mọi người, đặc biệt là với các thiếu nữ nông thôn. Chiếc nón còn là vật kỷ niệm, đồ trang sức, có mặt trong những điệu múa nón uyển chuyển, nhịp nhàng cùng với áo dài tạo nét duyên dáng đặc biệt cho các thiếu nữ Việt Nam.

Các Bài Hay Nên Xem Khác

Vật Phẩm Phong Thủy

BÌNH LUẬN