Top 7 lễ hội truyền thống lớn và nổi tiếng nhất ở Thái Bình

0
2560
Vật Phẩm Phong Thủy

Mỗi cùng đất trên nước ta đều có những bản sắc riêng với những lễ hội đặc sản vùng miền khác nhau . Hãy cùng topxephang tìm hiểu xem những lễ hội truyền thống đặc sắc ở Thái Bình nhé.

1.Hội làng Đồng Xâm
Hội làng Đồng Xâm theo định lệ hàng năm được tổ chức vào những ngày cuối tháng 3 âm lịch và khai hội vào ngày 1-4 âm lịch, tại xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương.

Đền Đồng Xâm nay thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, thờ Triệu Đà tức Triệu Vũ Đế (207-136 trước Công Nguyên) nằm trong một quần thể di tích có quy mô rộng lớn.

Trong đó, có đền thờ Trình Thị Hoàng hậu (vợ vua Triệu Vũ Đế) gắn với những huyền thoại về một làng chèo, làng ca trù và đền thờ Nguyễn Kim Lâu (thế kỷ XV) vị tổ nghề chạm bạc gắn với một làng nghề. Đền Đồng Xâm nằm trong hệ thống đền chùa nằm kề bên sông Vông với tục đua thuyền trong ngày hội.

Hội đền Đồng Xâm thường có nhiều lễ thức, nhiều trò chơi trò diễn trò đua tài, cuốn hút trai thanh, gái lịch trong vùng tham gia như: Đấu roi, đấu vật, hát chèo, hát ca trù…

Đặc biệt, sôi nổi nhất là cuộc thi đua thuyền của thanh niên trên sông Vông. Trong thời gian diễn ra lễ hội, các sản phẩm chạm bạc của làng cũng được trưng bày và bán làm làm đồ lưu niệm cho du khách để giới thiệu và quảng bá thêm về nghề truyền thống này.

Hội đền Đồng Xâm xưa và nay là ngày hội lớn thu hút du khách trong và ngoài tỉnh. Tính sầm uất của hội phần được lý giải bởi làng Đồng Xâm là làng chạm bạc không chỉ giàu có mà còn có nhiều khách vốn làm nghề kim hoàn tứ xứ về dự hội để tế tổ nghề.


2.Hội đền Đồng Bằng
Đã thành thông lệ, hàng năm đền Đồng Bằng khai hội vào ngày 20/8 (âm lịch), tại Đền Đồng Bằng xã An Lễ, Quỳnh Phụ, là nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, người có công lớn trong việc bình thục giữ nước và chiêu dân lập ấp xây dựng giang sơn xã tắc từ buổi sơ khai.

Đền có sắc phong: Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Thượng Đẳng Thần (vào đời Vua Hùng thứ 18). Tới thời Tiền Lê, đền được xây dựng mở rộng thành năm cung và bốn ban thờ Công Đồng khang trang và được liệt vào “Tứ cố cảnh”. Từ cuối thế kỷ 13, đền Đồng Bằng còn là nơi tưởng niệm Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng các danh tướng Hoàng thân Quốc thích nhà Trần trong 3 lần đại phá quân Nguyên Mông và lập nên 8 trang Đào Động xưa.

Hội kéo dài từ ngày 20 đến 26 tháng 8 âm lịch. Hội đền Đồng Bằng là một hội tứ phủ lớn trong vùng. Đây là dịp tập hợp lớn nhất của các ông đồng, bà cốt từ khắp mọi miền.

Vào ngày 20 tháng 8, diễn ra các nghi lễ trong đền Đồng Bằng của hội tứ phủ. Tất nhiên, trong các ngày sau đó tại đây vẫn tiếp tục những nghi thức này, song vào ngày 20 tháng 8 sinh hoạt hội tứ phủ vương mẫu là nhộn nhịp nhất.

Sáng ngày 21 tháng 8 dân làng tiến hành rước bài vị các thần ra đình bơi. Đám rước vô cùng long trọng và uy nghi, tôn kính. Khi bài vị các thần đã dâng bày lên hương án, khói ngang nghi ngút, việc cúng lễ bắt đầu. Người ta tin rằng như vậy đức vua cha cùng các vị thần khác sẽ về ngự để xem làng đua thuyền.

Qua ngày 22 tháng 8 người ta tổ chức bơi thăm thẻ. Hội bơi kéo dài suốt mấy ngày cho đến chiều ngày 25 tháng 8 làng tổ chức lễ cất trải và trao phần thưởng cho tích nào thắng cuộc.

Ngoài tục bơi trải nổi tiếng lễ hội còn tổ chức các trò vui khác trước và sau cuộc bơi như múa lân, hát chèo, đấu vật, đánh cờ tướng.

Ngày 26 tháng 8 giã hội sau 6 ngày vui náo nức. Hội chấm dứt bằng một cuộc rước long trọng và thành kính. Đó là cuộc rước bài vị của vua và các thần hoàn cung về đền Đồng Bằng. Ngày hội kết thúc trong niềm phấn khởi và hy vọng một năm làm ăn thịnh vượng của dân làng.


3.Lễ hội bơi trải trên sông Diêm
Lễ hội bơi trải trên sông Diêm, được tổ chức hàng năm vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch, tại Thị trấn Diêm Điền (Thái Thụy).

Làng Diêm Điền trước đây (nay thuộc thị trấn Diêm Điền) dài khoảng 1km nhưng được bao bọc 3 phía bởi sông Cống Ngoại về phía tây, sông Cống Mới phía đông đặc biệt phía nam là dòng Diêm Hộ chảy qua trước làng rồi mới đổ ra vịnh Bắc Bộ. Tục bơi chải của làng gắn liền với nghề đi biển đánh bắt hải sản và vận tải đường biển nên thường liên quan tới các vị Thuỷ Thần. Theo các bậc tiền nhân kể lại rằng trước năm 1945 làng còn có chùa và đình, trước khi bơi phải đến tế Thuỷ Thần ở Đình Trung vào sáng ngày 10 tháng giêng hằng năm. Người Diêm Điền hết sức tôn trọng phong tục lâu đời này vì năm nào không tổ chức lễ hội bơi chải Thuỷ Thần sẽ tức giận và năm đó thần sẽ về bắt người. Dân Làng Diêm Điền vẫn còn nhớ câu tục ngữ: ”Sóng Cửa Trà (cửa sông Trà Lý), ma cửa Hộ (cửa sông Diêm Hộ)”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), thời kỳ lập lại hòa bình 1955 đến 1975 vẫn chưa khôi phục… Từ ngày kinh tế đổi mới hội bơi chải của Diêm Điền được khôi phục và đáp ứng lòng mong mỏi và sự ủng hộ đông đảo nhân dân trong toàn thị trấn và cả huyện. Đây là cuộc thi nối tiếp truyền thống lâu đời thuỷ quân đã từng xuất hiện cách đây hàng ngàn năm trong lịch sử oai hùng của người dân tỉnh Thái Bình nói chung và làng Diêm Điền nói riêng, gắn liền từ vua Lý Bí (Lý Bôn) và tướng Phạm Ngũ Lão.

Lễ hội bơi chải truyền thống vào ngày 12 âm lịch hàng năm được coi là hoạt động đón xuân chính tại địa phương và mang ý nghĩa lễ ra quân đầu năm. Số chải tham gia lễ hội là 5 chải đại diện cho các khu dân cư và các doanh nghiệp lớn trên địa bàn thị trấn. Số người trong mỗi chải cũng có sự thay đổi. Tham gia tế Thuỷ Thần gồm 1 chủ tế, 4 bồi tế, 12 quan viên. Chủ tế mặc áo dài màu xanh, khăn xếp màu đen, hai bên tả, hữu là hai hàng quan viên (là những vị trong ban hương chức của làng) và có 2 ông tây xướng và nam xướng. Các bồi tế lần lượt dâng hương, đăng, trà (2 lần), dâng Thanh chước (rượu) 4 lần và ông chủ tế đọc bài chúc văn thành kính mời Thuỷ Thần về chứng giám các lễ vật do lòng thành của dân làng dâng cúng và cầu mong thần phù trợ đắc lực cho trời yên biển lặng, thuận buồm xuôi gió, nhà nhà bình yên, người người no đủ, hạnh phúc…

Sau khi tế xong các đội bơi đi xuống bến nơi có 5 thuyền chải có trang trí đầu rồng cách điệu ở phía mũi. Ở trên đình Thuận Nghĩa đốt vàng mã xong, ở dưới bến chuẩn bị phất cờ và đốt pháo phát lệnh là các đội bơi vào cuộc. Khi tiếng pháo thứ 3 vừa nổ xong thì các thuyền bơi dàn hàng ngang trên sông Diêm Hộ lao như tên trong tiếng trống cổ vũ vang dội của dân làng bên bờ. Các thuyền đua phải đi đúng 3 lượt mới kết thúc. Đội về nhất được nhận một con cá vược và tiền thưởng. Các thành viên tham gia bơi được mời dự bữa cơm cúng Thành Hoàng đầu năm tại đền Thuận Nghĩa./.
4.Hội làng La Vân
Làng La Vân là một thôn của xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình- nơi nổi tiếng ở Châu thổ Bắc Bộ với nghề ương bèo hoa dâu vào thập niên 1970 trở về trước . Tục truyền rằng Thành hoàng làng là Uy Minh đại vương Lý Nhật Quang, con Lý Hành, em vua Lý Anh Tôn và Thiên Đê đại vương- người có công “giáo dân dưỡng nghệ bình cầm” dạy cho dân ươm gây bèo hoa dâu, làm cho “dân khang vật thịnh”. Hàng năm làng mở hội hai lần vào ngày mồng 4 tháng giêng và từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 3 âm lịch.

Hội mùng 4 tháng Giêng ở La Vân là hội “trình nghề” với những hình thức diễn xướng dân gian độc đáo như một bức tranh thu nhỏ phản ánh xã hội xưa với đầy đủ thành phần sĩ, nông, công, thương…

Làng La Vân xưa có 7 giáp cùng chung lo tổ chức hội làng. Vào cuối tháng một đầu tháng chạp, các giáp trong làng vừa lo chuẩn bị tết Nguyên Đán, vừa tất bật đưa bèo giống ra ương, lại vừa lo lực lượng, phương tiện đua tài trong hội; nhưng chuẩn bị công phu nhất vẫn là việc chọn người và phương tiện ra dự trò tứ dân “sĩ- nông- công – cổ” trong ngày hội làng- đây là một trò trình nghề xuyên suốt các hoạt động hội.

Trước tết nửa tháng, làng bầu chọn ông chủ hội, các giáp bầu chọn ông chiềng cờ. Chiềng cờ là người chịu trách nhiệm tổ chức cho các thành viên của giáp mình vào thi tài ở các lớp diễn. Sáng mồng 4 tết, dân làng xem hội đứng chật sân đình, chính giữa sân giành chỗ cho đội múa lân, múa cờ… Bắt đầu hội là màn múa lân độc đáo, hấp dẫn giành được nhiều tình cảm của dân làng và dưới sự điều hành của ông chủ hội, 7 vị chiềng cờ của 7 giáp xuất hiện múa cờ một vòng quanh sân và đọc lời giới thiệu về giáp mình. Các thành viên trong giáp theo ông chiềng cờ ra tập trung ở giữa sân. Sau lời giới thiệu của ông chiềng cờ, các lớp diễn trò bắt đầu.

Lớp trò “sĩ”: ông thầy đồ mặc bộ quần áo trùng màu đen trông oai nghiêm, chân đi guốc mộc, một tay chống nách, tay kia cầm chiếc roi mây vừa đi vừa quất vào không khí nghe vun vút. Cậu học trò mặc bộ quần áo màu nâu với nhiều miếng vá chằng chịt, quần ống thấp ống cao, chân tay bê bết mực, nách cắp chiếc tráp xộc xệch chạy theo thầy; trên đường đi tỉnh thoảng lại đánh rơi sách, rơi bút, bị thầy quát, thầy đánh đòn, vừa nhặt vừa chạy vừa xoa mông cho đỡ đau. Thầy ngồi khoanh chân lên chiếc chiếu trải sẵn góc sân đình, sách để trên tráp, một tay mở sách, một tay quất roi; trò khép nép đứng bên. Thầy đọc trước, trò đọc theo; thầy đọc sai trò cãi, thầy đánh; thầy hỏi một đằng, trò trả lời một nẻo, những lúc như thế từng tràng cười giòn giã vang lên khuyến khích lớp diễn hấp dẫn.

Góc sân đình bên cạnh là lớp trò “công” với vai ông thợ mộc. Bộ đồ nghề của ông thợ gồm cưa, đục, rìu… Ông thợ cứ hì hục làm, khi thì đẽo một cái chày giã cua, khi thì cưa tre đóng một cái chuồng gà, lúc thì nhổ đinh, vừa làm vừa nghe tiếng đế theo của khán giả tạo ra không khí vui nhộn.

Ở một góc sân khác, lớp trò “cổ” (hay “thương”) diễn ra tấp nập giữa kẻ bán và người mua. Kẻ bán quẩy đôi quang gánh trong đó có đủ thứ: mắm, muối, rau củ, hoa quả, bánh trái…đi rao, rao thế nào để gây cười và bán được càng nhiều hàng càng tốt. Tiếng người mua ngã giá, mặc cả, tiếng người bán chanh chua, ngoa ngoắt khi người mua trả giá quá rẻ… đan xen lẫn nhau tạo ra nhiều tràng cười vui vẻ.

Náo nhiệt nhất vẫn là lớp trò “nông”. Trên một góc sân đình, một “mảnh ruộng” nhỏ đã được be bờ, tát nước và thả sẵn bèo hoa dâu. Đàn ông hóa trang thành bà cấy, đầu chít khăn mỏ quạ, mặc yếm đào, độn ngực, váy cuốn cao như các cô thôn nữ đi làm đồng. Người nữ đóng ông thợ cày đầu chít khăn mỏ rìu, vác cày hoặc bừa làm bằng bẹ chuối và lá dọc dừa, quần xắn cao quá đầu gối, tay cầm roi tre, vừa đi vừa quát “trâu”. Người đóng vai “trâu cày” là khổ nhất, đi phải cúi khom lưng, thỉnh thoảng lại bị ông thợ cày quất cho một roi vào mông vì không cày thẳng hàng. Đầu “trâu” làm bằng chiếc gầu giai phất giấy màu đen, thân “trâu” là chiếc bồ. Khi bị đánh “trâu” lồng lên té ướt cả bà cấy và người xem, có lúc “trâu” tỏ ra ngoan ngoãn, thong thả bước, có lúc còn trêu ghẹo “cắn” vào mông bà cấy, bà cấy giật mình chạy té ướt mọi người; mấy ông vạc bờ cuốc góc thỉnh thoảng lại ve vãn bà cấy gây cười, hoặc đối đáp hát ví von.

Trước đây, trò diễn có chấm giải, chủ yếu dựa vào sự chuẩn bị công phu và tính hài hước của từng trò mà đánh giá. Nay trò diễn không chấm điểm, không xếp hạng nhưng giáp nào cũng lo chuẩn bị công phu, độc đáo để còn nhận được tiếng thơm của dân làng và trò diễn luôn được thôn La Vân 1-2-3 duy trì đều đặn và nhận được sự cổ vũ nhiệt tình của dân làng.

Hoạt động hội từ 20 đến 26 tháng ba âm lịch đã trở thành sức sống mãnh liệt trong mỗi dịp làng mở hội. Trong hội có rất nhiều các nghi lễ cổ, các trò chơi, trò diễn dân gian hết sức phong phú như tục rước tế, chơi cờ người, tổ tôm điếm, chọi gà, đấu vật… thu hút sự tham gia của dân làng và các du khách gần xa. Sau màn múa lân, múa rồng rộn rã, lễ rước Thành hoàng làng về dự hội được tiến hành .

Đám rước được bắt đầu từ hậu cung đình ra miếu và chùa cổng sau đó trở về đình làm lễ. Đường đi của đám rước theo một vòng quanh làng. Đội múa lân đi trước dọn đường, kế là đội cờ, phường bát âm, đoàn người mang cờ, trống, đồ bát bảo, nhang án, võng lọng. Tiếp đến là kiệu Thánh (Nguyễn Minh Không), kiệu Thần, kiệu Quan, kiệu Phật, kiệu Mẫu, đoàn quân hội múa kéo chữ, đoàn hành lễ, đoàn đại biểu và dân chúng dự hội. Các vị trong đội tế chân đi hia, đầu đội mũ cánh chuồn, quần áo tế sặc sỡ, đủ màu sắc. Đám rước đi một đường, về một đường, đi trong tiếng chiêng, tiếng trống vang động, tiếng nhạc của phường bát âm rộn rã cùng tiếng người dự hội tạo nên không khí sôi động, nhộn nhịp. Sau khi đi vòng đường làng, qua những bờ ngô bãi mía xanh tươi, đám rước trở về đình. Trên sàn tế, chính giữa đình nghi lễ được bắt đầu. Kiệu và tượng Thánh được đặt vào vị trí trang trọng nhất tại đình. Kế theo là lễ dâng hương nghiêm cẩn để tế Thánh. Lễ vật tế Thánh ngoài hương, nến, trầu cau, rượu, mâm ngũ quả còn có một mâm xôi trắng và sỏ lợn.

Trong đình làng khói hương nghi ngút, người trong làng, khách thập phương ra vào lễ Thánh tấp nập cầu chúc năm mới nhiều may mắn, người khang, vật thịnh, mưa thuận gió hòa… ngoài sân đình các trò chơi, trò múa kéo chữ, trò diễn dân gian như chơi cờ người, đấu vật, đua thuyền, chọi gà, đánh đu… cũng đồng thời được tiếp diễn. Người ta đua nhau vui chơi, thi thố tài năng để giành giải thưởng, thử vận may.

Chiều ngày 26 tháng ba, dân làng tổ chức rước kiệu Thánh từ đình về miếu và làm lễ yên vị, kết thúc một mùa hội tưng bừng, náo nhiệt trong sự cộng cảm, hào hứng của hàng ngàn người lao động trong vùng và du khách thập phương.

Bao hàm những nội dung mang tính lịch sử và văn hóa truyền thống, hội làng La Vân đã và đang được phát huy tác dụng tích cực trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở một vùng quê lúa./.


5.Lễ hội ông Đùng – bà Đà
Lễ hội được tổ chức ngày 14- 4 âm lịch hàng năm tại Đền thờ bà chúa Muối thuộc làng Quang Lang, xã Thụy Vân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Lễ hội là nơi gửi gắm ước vọng của những người dân làng muối về sự sản sinh, sinh sôi, dồi dào. Nơi đó có sự giao hoà của con người cùng sông nước đất trời làm lòng người thêm tươi trẻ, cây cối thêm xanh tươi, thóc lúa thêm nhiều, báo hiệu một mùa muối dồi dào, bội thu.

Bà chúa Muối – có tên thật là Nguyệt Ánh. Theo truyền thuyết kể lại rằng: Một hôm, khi chở muối trên một chuyến đò, Nguyệt Ánh gặp thuyền của vua Trần Anh Tông trên sông Hồng. Mấy người chèo thuyền khát nước, liền gọi đò cô bán muối đến và xin nước uống. Nàng e lệ sượng sùng, khép nép, nước cầm tay, tà áo che mặt. Chợt thấy đôi bàn tay xinh xắn của nàng, vua đón sang thuyền mình và sau đó lập làm vợ ba. Sống trong cung điện nhưng nàng không nguôi nhớ về quê nhà, nhà vua đành phải đồng ý xuất lụa là, vàng bạc rồi cho quân lính đưa Nguyệt Ánh về quê. Không lâu, bà lâm bệnh nặng, rồi qua đời vào ngày 14/4. Nhà vua được tin thương tiếc đã sắc phong cho bà làm Phúc thần, người dân làng Quang Lang biết ơn bà lập đền thờ để con cháu đời đời tưởng nhớ công lao của bà – đó là đền thờ bà chúa Muối ngày nay.

Lễ hội đặc sắc với điệu múa ông Đùng, bà Đà mang đậm chất folklore – nhằm cầu mong sự sinh sôi, thịnh vượng. Hình ông Đùng, bà Đà được đan bằng tre mỏng, đan theo kiểu mắt cáo. Thân hình cao tới 1,5m – 2m, hình chóp nón, đường kính phía dưới rộng, đủ cho một người chui lọt vào. Sáng sớm ngày 14/4 âm lịch, các thôn trong làng mang các hình nộm ông Đùng, bà Đà vào Đền thờ bà chúa Muối để tiến hành các nghi thức tế lễ một cách nghiêm trang thành kính.

Tục chính của lễ hội là múa Đùng được diễn ra vào lúc nhập nhoạng tối cùng ngày. Trong khi múa người ta xướng vang những câu tụng ca công đức của bà chúa Muối như: “Lạy chúa! Muối của chúa năm nay được mùa lắm! Lạy chúa, lạy chúa…”.

Trong lễ hội các hình nộm mang cả dáng dấp ông Đùng và bà Đà. Khi múa lúc nghiêng ngả, quay sang phải, sang trái, cho ông bà có cơ hội “bày tỏ” tình cảm vui mừng với nhau. Các vai ông Đùng, bà Đà phải phối hợp sao cho những lần giáp mặt, thân chập vào nhau. Người Quang Lang giải thích đó là lúc ông bà đang “ăn nằm” với nhau. Sau đó, đoàn múa ra khỏi Đền và đi quanh làng, các Đùng con quấn quýt xung quanh Đùng bố mẹ. Dân làng đi theo nhộn nhịp, vừa đi vừa hát múa. Lúc đám rước quay về tới Đền thì dân làng vội vã xô nhau vào để lấy cho được một nan nứa trên hình nộm hai ông bà về cắm vào ruộng, vào vườn, trên thuyền để lấy may.

6.Hội Sáo đền
Những ai say mê với thú thả diều có thể ghé về Thái Bình vào dịp cuối tháng Ba âm lịch để dự hội Sáo đền, lễ hội thả diều độc đáo được ít người biết đến. Hội thả diều Sáo đền diễn ra từ ngày 20 đến 27.3 ÂL hằng năm tại xã Song An, huyện Vũ Thư. Về đây người ta còn tìm về một trong những cái nôi của làn điệu chèo ngọt ngào nổi tiếng.

Ngày nay Sáo đền được biết đến với trò chơi thả diều độc đáo. Cũng như mọi lễ hội khác ngoài phần lễ là phần hội. Phần hội với đủ các trò chơi như: chọi gà, cờ người, bắn cung, bắt vịt… và trò thi diều sáo. Đã từ hàng trăm năm nay,luật chơi không hề thay đổi. Người chủ diều chọn đúng hướng gió kéo dây. Ban tổ chức cắm hai cây sào trên đầu có buộc hai lưỡi mác rất bén cắm hai cây sào đó hai bên dây diều, khoảng cách của hai cây sào là 50cm. Việc đó được làm với tất cả cánh diều nào vào cuộc thi. Khi nghe hồi trống lệnh nổi lên, các chủ diều chỉnh chuẩn diều kéo căng dây và đâm lên. Cánh diều nào không chuẩn đảo qua đảo lại, dây diều sẽ chạm phải hai lưỡi mác trên hai ngọn sào là đứt dây.

Như vậy cánh diều đó bị loại khỏi cuộc chơi, cứ thế diều nào đậu được đến ngày cuối cùng của hội thì chủ diều đó đoạt giải. Theo như các cụ già trong làng kể lại thì mỗi năm chỉ duy nhất một người đoạt giải, có năm không có ai đoạt được giải diều, như năm 2003 là ví dụ. Thả diều phải nhờ ở gió trời, do đó có năm vào ngày hội mà không có gió trời hoặc gió không đủ mạnh để đâm diều sáo. Nhưng hội Sáo đền chưa năm nào bị gián đoạn, the người dân nơi đây thì đó là nhờ “ gió thần”.

Diều được giải nhất ngoài việc đậu đến hết hội ở giữa hai lưỡi mác thì sáo diều phải thật hay. Sáo hay là bộ sáo gồm 2 sáo trở lên, tiếng sáo trong trẻo âm thanh giữa các sáo trong bộ sáo phải phối hợp cho nhau hài hoà, ngọt ngào, du dương …


7.Lễ hội Chùa Keo
Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Một năm chùa mở hội 2 lần, đó là Hội Xuân vào ngày mồng 4 tết Nguyên Đán và Hội chính mùa thu, từ ngày 13 đến ngày 15/9 âm lịch. Hội tháng 9 gắn liền với sự tích của Không Lộ Thiền Sư (13-9 là 100 ngày mất của ngài, còn 14 tháng 9 là ngày sinh).

Ngày 13, mở đầu là cuộc rước kiệu kỷ niệm 100 ngày tịch của thiền sư Không Lộ. Chiều có các cuộc đua trải. Tối có cuộc thi kèn và trống.

Sáng 14, kỷ niệm ngày sinh của sư Không Lộ. Sau lễ dâng hương đến đám rước gồm có đôi ngựa hồng, ngựa bạch có đủ yên cương và 4 bánh do người kéo. Tiếp đến là 8 lá cờ thần, 42 người vác bát bửu lỗ bộ… Chiều 14, tại toà Giá Roi diễn ra nghi lễ chầu thánh mang tính nghệ thuật , đó là điệu múa cổ còn gọi là “múa ếch vồ”.

Ngày 15, mọi nghi lễ diễn ra như ngày 14 nhưng có thêm một số trò diễn sau khi rước kiệu hoàn cung.

Hội chùa Keo diễn ra đông vui tấp nập suốt 3 ngày, 3 đêm bằng nghi lễ tôn giáo và một số tập tục cổ truyền để tưởng nhớ vị thiền sư đã có công với nước và qua hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian đã phản ánh được lối sống của vùng dân cư ven sông mang màu sắc văn hoá nông nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ.

Các Bài Hay Nên Xem Khác

Vật Phẩm Phong Thủy

BÌNH LUẬN