Mỗi quốc gia đều có những nét văn hóa và ẩm thực riêng của đất nước mình với những món ăn vô cùng đặc biệt mà khi nhắc đến ai cũng sẽ dê dàng nhận ra đó là của đất nước đó . Và dưới đây , chúng ta sẽ tìm hiểu 5 món ăn ngon đặc biệt nhất của quốc gia này sau đây.
1.Tarator
Tarator, tarathor, taratur, hoặc ttalattouri (bulgaria, macedonia và chữ Serbia Cyrillic: таратор, tiếng Albania: Tarator, Sals kosi, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: cacık, tiếng Hy Lạp: τζατζίκι / τταλαττούρι (Síp)), là một loại súp, món khai vị, hay nước sốt có trong các món ăn của Đông Âu. Nó thường bao gồm hạt óc chó, tỏi, và sữa chua hoặc tahini, và thường có dưa chuột, các loại thảo mộc, và giấm hoặc nước chanh.
Ở Balkan, nó là một loại súp lạnh (hay một salad lỏng), phổ biến trong mùa hè. Nó được làm từ sữa chua, dưa chuột, tỏi, hạt óc chó, thì là, dầu thực vật và nước,[1] và nó phục vụ vớt ớt hoặc thậm chí với đá. Biến thể địa phương có thể thay thế sữa chua với nước và giấm, bỏ qua hạt hoặc thì là, hoặc thêm bánh mì. Dưa chuột hiếm khi được thay thế bằng xà lách hoặc cà rốt.
Tarator Thổ Nhĩ Kỳ và Levantine thường là một loại sốt dựa trên tahini, không phải sữa chua. Nó thường được phục vụ với cá hoặc hải sản chiên.
Tiếng Hy Lạp ở Síp : τταλαττούρι không phải là một loại nước sốt như tarator ở Bungaria mà giống một loại nước chấm từ sữa chua.
2.Kebab
Kebab (còn được viết kebap, kabab, kebob, kabob, kibob, kebhav, kephav) là một món ăn sử dụng thịt nướng phổ biến tại Trung Đông, Đông Địa Trung Hải, và Nam Á… Các món kebab rất đa dạng, thông thường sử dụng thịt cừu và bò, ngoài ra còn có gà, lợn, dê, và cả cá, tôm, cua. Những người Hồi giáo và Do Thái không sử dụng thịt lợn để làm kebab vì những lý do tôn giáo, nhưng kebab thịt lợn vẫn có thể tìm thấy ở Ấn Độ, Hy Lạp, Armenia… Theo chân những người di cư, các món kebab hiện nay rất phổ biến tại châu Âu.
3.Pilaf
Pilaf (còn được gọi pilau rang và plov), là một món ăn, gạo được nấu chín trong nước luộc thịt (nước xuýt). Trong một số trường hợp, cơm cũng có thể đạt được màu nâu của bằng cách khuấy với một ít hành tây đã nấu chín, cũng như một hỗn hợp các loại gia vị. Tùy thuộc vào các món ăn địa phương, nó cũng có thịt và rau. Pilaff và các món ăn tương tự phổ biến Balkan, Trung Đông, Trung và Nam Á, Đông Phi, Mỹ Latinh, và ẩm thực Caribbe. Thuật ngữ pilaf trong tiếng Anh mượn thẳng từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, palov và/hoặc tiếng Uzbekistan, palov, mà từ này lại được mượn từ tiếng Ba Tư cổ polow (پلو), và từ này lại được vay mượn từ tiếng Phạn pulāka- (पुलाक), “cục cơm luộc”. Thuật ngữ tiếng Anh lại bị ảnh hưởng bởi tiếng Hy Lạp hiện đại pilafi.
4.Salami
Salami là một loại xúc xích dạng khối được làm từ thịt động vật lên men và sấy khô. Có thể làm từ một loại thịt hoặc nhiều loại trộn lẫn vào nhau (thường là thịt heo, bò). Từ xưa đến nay, Salami đã là món ăn truyền thống phổ biến của người dân miền Nam châu Âu vì có thể được bảo quản tốt ở nhiệt độ phòng từ 30-40 ngày, bổ sung các chất dinh dưỡng tương đương thịt tươi. Salami được sản xuất khắp các nước châu Âu với nhiều chủng loại và mỗi nơi có một hương vị riêng, nhưng nổi tiếng nhất là salami của Ý với hương vị hảo hạng và các công đoạn chế biến công phu.
Chữ “salami” mà chúng ta đang dùng là của tiếng Anh, đây cũng là dạng số nhiều (plural) của tiếng Ý (salame)[1]. Người Rumani, Bungari, Thổ Nhĩ Kỳ gọi là Salam; người Hungary gọi là szalámi, người Pháp gọi là saucisson.
5.Moussaka
Moussaka ( /muːˈsɑːkə/, /ˌmuːsəˈkɑː/ or /ˌmuːsɑːˈkɑː/) là một món ăn chính có căn bản là cà tím (có thể có thêm khoai tây), thường bao gồm thịt xay, phổ biến ở Balkan và Trung Đông, với nhiều biến thể địa phương và khu vực.
Tại Hy Lạp, món ăn có nhiều lớp và thường phục vụ nóng. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, nó được rán thật nóng và phục vụ theo phong cách một cái chảo, và được dùng ấm hoặc ở nhiệt độ trong phòng. Ở các nước Ả Rập, một biến thể được ăn lạnh. Nhiều phiên bản có một lớp trên làm bằng nước sốt từ sữa được làm đặc lại với trứng (tiếng Anh: custard) hoặc bột (nước sốt béchamel).