Di sản thế giới là di chỉ, di tích hay danh thắng của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố,… do các nước có tham gia Công ước Di sản thế giới đề cử cho Ủy ban Di sản thế giới, được công nhận và quản lý bởi UNESCO. Sau đó, UNESCO sẽ lập danh mục, đặt tên và bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản nhân loại chung. Vậy ở Ba Lan có những di sản nào đã được công nhận , chúng ta cùng tìm hiểu sau đây.
1.Các nhà thờ gỗ ở Nam Tiểu Ba Lan
Các nhà thờ gỗ ở Nam Tiểu Ba Lan là các nhà thờ làm bằng gỗ nằm ở Gorlicki, Nowotarski, và Bocheński thuộc tỉnh Małopolskie, Ba Lan. Các nhà thờ này được dựng bằng kỹ thuật sử dụng các cây gỗ tròn, đặt nằm ngang, có từ thời trung cổ ở Đông Âu và Bắc Âu.
Các nhà thờ này đã được UNESCO đưa vào danh sách di sản thế giới từ năm 2003.
2.Các nhà thờ Hòa bình
Các nhà thờ Hòa bình (tiếng Ba Lan: Kościół Pokoju, tiếng Đức: Friedenskirche) tại Jawor (Jauer) và Świdnica (Schweidnitz), vùng Silesia (Ba Lan) được đặt tên theo Hòa ước Westphalia năm 1648, cho phép các tín hữu đạo Tin Lành (Luther) được xây 3 nhà thờ Tin Lành trên phần đất Công giáo Roma trong vùng Silesia. Các nhà thờ hòa bình Silesia là các cơ sở Tin Lành quan trọng nhất trong suốt thời đế chế Habsburg.
Từ năm 2001, hai ngôi nhà thờ lớn nhất còn lại đã được UNESCO đưa vào danh sách di sản thế giới.
3.Công viên Kalwaria Zebrzydowska
Công viên Kalwaria Zebrzydowska là một trường phái kiểu cách kiến trúc, cảnh quan phức hợp công viên, công viên hành hương được xây dựng vào thế kỷ 17. Công viên này nằm gần thị trấn Kalwaria Zebrzydowska và thị trấn này được lấy tên từ công viên. Năm 1999, công viên là một di sản thế giới được UNESCO công nhận.
Kalwaria Zebrzydowska được thành lập vào năm 1600 bởi Mikołaj Zebrzydowski, tỉnh trưởng của Kraków cho tu sĩ Phan Sinh (người chăm sóc của Mộ Chúa ở Jerusalem). Nó được mô hình hóa trên 1.584 bản đồ bởi Christian Kruik van Adrichem.
4.Cung Thế kỷ
Cung Thế kỷ (tiếng Đức: Jahrhunderthalle, tiếng Ba Lan: Hala Stulecia hoặc Hala Ludowa) là một tòa nhà lịch sử ở thành phố Wrocław. Tòa nhà này được xây dựng theo đồ án của kiến trúc sư người Đức Max Berg từ năm 1911 tới năm 1913, khi thành phố này còn thuộc Đế chế Đức.
Năm 2006, Cung Thế kỷ đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới.
5.Lâu đài Malbork
Lâu đài Malbork (tiếng Ba Lan: Zamek w Malborku, tiếng Đức: Ordensburg Marienburg) là một lâu đài cổ được xây dựng bởi dòng họ của những hiệp sĩ Teutonic vào thế kỷ 12-13 (từ năm 1274). Lâu đài là điển hình của một pháo đài thời trung cổ, và cũng là toà lâu đài được xây hoàn toàn bằng gạch theo phong cách kiến trúc Gôtích (Gothique) lớn nhất thế giới với diện tích lên đến 143.591 m². Lâu đài này xuất thân là một pháo đài, xây dựng theo đặt hàng của người Đức. Thời gian đó, công trình này được đặt tên là Marienburg (lâu đài của Mary hay Lâu đài của Maria), thị trấn xung quanh lâu đài cũng được gọi là Marienburg.[1]
Lâu đài nằm ở vùng biên giới của Châu Âu trung cổ, lâu đài là nơi khắc ghi truyền thuyết về tình anh em thiêng liêng của những chiến binh xưa, truyền thuyết về lòng trung thành và nỗi khiếp sợ. Các hiệp sĩ German hiện thân của lòng tin và lòng quả cảm đã làm tròn bổn phận đối với một trong những vương quốc vĩ đại nhất của thời trung cổ ở châu Âu. Từ những năm 1945, lâu đài này thuộc về Ba Lan và có tên gọi chính thức là Malbork. Malbork được UNESCO ghi nhận là di sản văn hoá thế giới vào tháng 12 năm 1997. Đến nay Malbork vẫn hầu như giữ nguyên dáng vẻ hùng vĩ và tráng lệ của mình.
6.Mỏ bạc lịch sử tại Tarnowskie Góry
Mỏ bạc lịch sử tại Tarnowskie Góry (tiếng Ba Lan: Zabytkowa Kopalnia Srebra) là một bảo tàng công nghiệp khai thác tại Tarnowskie Góry, vùng Silesia, Ba Lan. Mỏ bạc và cửa thoát nước Black Trout gần đó là những tàn dư của ngành công nghiệp khai thác bạc. Bảo tàng là một điểm dừng của Tuyến đường di sản công nghiệp châu Âu. Năm 2017, khu mỏ và hệ thống thoát nước ngầm của nó đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản thế giới của nhân loại.
7.Mỏ muối Bochnia
Mỏ muối Bochnia (tiếng Ba Lan: kopalnia soli w Bochni) ở Bochnia, Ba Lan là một trong những mỏ muối lâu đời nhất trên thể giới.[1] Đây là phần mở rộng của Mỏ muối Wieliczka (đã được công nhận vào năm 1978), ghi vào danh sách Di sản thế giới năm 2013, để hợp nhất thành di sản Mỏ muối Wieliczka và Bochnia. Các lâu đài của các thợ làm muối Wieliczka cũng đã là tài sản được thêm vào di sản này. Các mỏ muối Wieliczka-Bochnia được khai thác từ thế kỷ 13 và là mỏ muối lâu đời nhất ở châu Âu. Trải rộng trên 300 km bao gồm các phòng trưng bày với nhà thờ dưới lòng đất, nhà kho… Ngoài ra là các bàn thờ và các bức tượng được tạc vào muối, hành hương tại hai mỏ muối này đưa con người về với quá khứ của một nền công nghiệp lớn đã phát triển cách đây hơn 700 năm.
Mỏ được Bochnia thành lập vào giữa thế kỷ 12 và 13 sau khi muối được phát hiện ở Bochnia, và trở thành một mỏ muối của công ty khai thác mỏ Hoàng gia Krakowskie. Khu mỏ đã đóng cửa một thời gian sau Thế chiến I. Năm 1981, nó được công nhận là di tích, di sản quốc gia.
Hầm mỏ này có chiều dài khoảng 4,5 km (2,8 dặm), chiều sâu bên dưới bề mặt từ 330-468 mét, ở 16 cấp độ khác nhau. August Passage là tuyến đường chính trong mỏ cùng các tuyến đường giao thông vận tải khác nhỏ hơn trong mỏ. Nó chạy từ phía đông đến phía tây của mỏ, kết nối trong một đường hầm ngầm phía dưới kết thúc của hai trục đường Campi và Sutoris. Phần đầu tiên của nó, mở rộng giữa Chute Rabsztyn và trục Campi được xây dựng trong những năm 1723-1743, với một thiết kế của Jan Gottfried. Thành tựu to lớn của ông là đã điều chỉnh các tuyến đường trong mỏ bằng cách đảm bảo chúng thẳng và bằng phẳng. Vì vậy, Passage ngày đó có thể đạt đến chiều dài gần 3 km. Phòng khai quật, trục và các con đường tạo thành một thành phố dưới lòng đất, ngày nay đã mở cửa cho khách tham quan. Căn phòng lớn nhất đã được chuyển đổi thành một viện điều dưỡng.
Trong năm 2010, mỏ muối được đề nghị thêm vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO như là một phần mở rộng của Mỏ muối Wieliczka được công nhận vào năm 1978. Nhưng mỏ muối này phải đến năm 2013 mới chính thức được công nhận.
8.Nhà thờ gỗ Tserkvas trên dãy Karpat ở Ba Lan và Ukraina
Nhà gỗ Tserkvas trên dãy Carpath ở Ba Lan và Ukraina là một nhóm nhà thờ gỗ Công giáo Đông phương, nhà thờ Chính thống giáo ở Ba Lan và Ukraina đã được ghi vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO tại kỳ họp thứ 37 vào tháng 6 năm 2013.
Nằm ở rìa phía đông của Đông Âu, đây là các di sản xuyên quốc gia được lựa chọn là 16 nhà thờ gỗ Tserkvas được xây dựng theo các bản vẽ bằng gỗ từ giữa thế kỷ 16 tới 19 của các cộng đồng của Giáo hội Chính Thống Hy Lạp và tín ngưỡng Công giáo Đông phương. Đây là các đại diện cho những biểu hiện văn hóa của bốn nhóm dân tộc và các đặc tính chính của nhà thờ gỗ. Với các hoa văn trang trí và kỹ thuật xây dựng, các nhà thờ đã phát triển rộng ra khắp khu vực theo thời gian. Các nhà thờ tserkvas là bằng chứng cho một truyền thống xây dựng khác biệt bắt nguồn từ thiết kế giáo hội Chính thống đan xen với các yếu tố truyền thống địa phương. Các nhà thờ tserkvas được xây dựng với đặc trưng về vòm nhà tứ giác hoặc bát giác mở với mỗi một nhà thờ có cấu trúc gồm 3 công trình. Nhà thờ bao gồm các tháp chuông bằng gỗ, của sổ, vòm tròn, các họa tiết trang trí đa màu, nội thất cũng như cổng ra vào, nghĩa địa…
9.Khu phố cổ của Warszawa
Khu phố cổ của Warszawa (tiếng Ba Lan: Stare Miasto, “Starówka”) là quận cổ nhất của Warszawa, Ba Lan. Khu phố này được bao bọc bởi Wybrzeże Gdańskie, dọc theo sông Vistula, và bên cạnh các phố Grodzka, Mostowa và Podwale. Đây là khu vực cổ nhất của thủ đô Warszawa và là nơi thu hút du khách tham quan. Trung tâm của Khu phố cổ là Chợ Phố Cổ với các nhà hàng Ba Lan truyền thống, các quán café và các cửa hiệu. Các phố xung quanh nổi bật với các công trình kiến trúc thời Trung Cổ như tường thành, thành lũy và Đại giáo đường St. John.
10.Rừng Białowieża
Vườn quốc gia Belovezhskaya Pushcha (Rừng Białowieża) được thành lập ở Ba Lan vào năm 1921 và ở Belarus vào năm 1932, nằm ở thượng nguồn các sông đổ ra biển Baltic và biển Đen (Hắc Hải). Đây là một khu rừng hỗn giao rộng lớn ở đồng bằng châu Âu do nằm ở vùng chuyển tiếp khí hậu ôn đới ở phía Nam và khí hậu lạnh ở phương Bắc. Thực vật chính trong vườn là các loại cây thường xanh (lá xanh quanh năm) và cây lá rộng. Các loại cây điển hình của rừng hỗn giao trong vườn quốc gia bao gồm: thông, sồi, vân sam… khoảng 26 loài và khoảng 138 loại cây bụi. Đây là khu rừng tồn tại và phát triển lớn từ khoảng 8000 năm trước, là khu rừng nguyên sinh điển hình còn lại từng bao phủ khắp châu Âu.
Khu vực là nơi sinh sống của loài bò rừng bizon châu Âu được tìm thấy vào năm 1929. Ngoài ra, vườn quốc gia trên còn có các loài thú quý hiếm như: nai sừng tấm, nai trứng, hươu, lợn rừng, ngựa rừng hoang dã Ba Lan, linh miêu, chó sói, cáo, lửng, hải ly, rái cá…Các loài chim cũng hết sức đa dạng như: đại bàng đuôi trắng, đại bàng cú, chim ưng, chim gõ kiến..
Với những giá trị quan trọng, Vườn quốc gia Belovezhskaya Pushcha / Rừng Białowieża đã trở thành khu vực thiên nhiên có giá trị nhất ở vùng đồng bằng châu Âu. Vì vậy, năm 1979, nó đã được UNESCO đưa vào danh sách di sản thế giới.