Mỗi cùng đất trên nước ta đều có những bản sắc riêng với những lễ hội đặc sản vùng miền khác nhau . Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem những lễ hội truyền thống đặc sắc ở Đà Nẵng nhé.
1.Lễ hội đua thuyền
Lễ hội đua thuyền, diễn ra vào tháng Giêng âm lịch hàng năm, tại Quận Liên Chiểu, với ước muốn cầu mong mưa thuận, gió hòa.
Theo ông cha kể lại, người xưa tổ chức Lễ hội đua thuyền vào ngày đầu xuân để khai thông sông rạch với ước muốn cầu mong mưa thuận, gió hòa. Làng nào giành chiến thắng trong cuộc đua thì năm đó sẽ gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt. Từ xa xưa, kể cả trong những năm chiến tranh ác liệt hay thời bình, giải đua thuyền đã trở thành thông lệ trong những ngày đầu năm.
Trước lễ hội 1 tuần, bà con trong làng tụ họp để bàn chuyện chuẩn bị đua thuyền hoặc thăm hỏi, động viên con cháu tập luyện.
Mỗi làng đều hình thành một đội đua toàn trai tráng ở cỡ 18-35 tuổi. Mỗi đội đua có nhiều nhất 30 người gồm lái thuyền, cầm phách, cầm tổng và dân bơi. Kinh phí lập đội thuyền do dân làng quyên góp.
Trong những thời khắc này, cả xã Hòa Hiệp dường như mất ngủ, điểm sinh hoạt ở thôn nào cũng sáng đèn, họ tụ hội về đây để cổ vũ, để bàn tán về chiến thuật, đánh giá thuyền của các làng khác. Nhưng rốt cục thì người làng nào cũng khẳng định “đò” của làng mình sẽ đoạt giải nhất.
Sáng tinh mơ ngày hội, khi các cụ bô lão trong thôn cùng trai làng khỏe mạnh nhất ra bờ sông đứng bên mũi thuyền thắp hương cầu nguyện cho một mùa mưa thuận gió hòa, thì hai bên bờ sông đã huyên náo tiếng người. Người dân từ các vùng Thủy Tú, Kim Liên, Nam Ô… đã thức dậy rất sớm để kiếm cho mình chỗ đứng xem thuận lợi nhất.
Khi lệnh xuất phát vừa đưa ra, các thuyền lập tức lao lên, hai bên bờ sông Cu Đê như vỡ òa trong tiếng hò reo và âm thanh của trống, mõ. Hàng ngàn con mắt dán chặt xuống mặt sông. Lúc đó, dòng sông Cu Đê hiền hòa bỗng sôi sục bởi hàng chục con thuyền được trang hoàng như một rừng hoa sặc sỡ cỡi trên dòng nước vùn vụt lao về phía trước.
Kết thúc cuộc thi, đội chiến thắng thì hân hoan ca hát, đội thua thì xuýt xoa tiếc nuối và quyết tâm sẽ chiến thắng vào lễ hội năm sau.
Những năm trở lại đây, quận Liên Chiểu ngày càng quan tâm duy trì hoạt động văn hóa truyền thống này trên dòng sông Cu Đê. Từ hoạt động mang tính tự phát, ngày nay chính quyền địa phương đã đứng ra tổ chức lễ hội, đồng thời mời những đội thuyền ở các địa phương khác về tham gia tranh tài, góp phần làm cho lễ hội ngày càng hào hứng, sôi nổi.
Lễ hội đua thuyền là nét đẹp độc đáo, đặc trưng riêng của người dân vùng sông nước, tạo nên một phần bản sắc văn hóa Việt mà mỗi người con đi xa ai cũng nhớ về./.
2.Lễ hội đình làng An Hải
Làng An Hải thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Trước đây mảnh đất phía đông sông Hàn này đã một thời được các vua nhà Nguyễn cho xây dựng thành trì – gọi là thành An Hải, cùng với thành Điện Hải ở phía tây giữ nhiệm vụ bảo vệ cảng biển Đà Nẵng. Đến nay, dấu vết thành An Hải hầu như không còn. Lễ hội đình làng An Hải được khôi phục năm 2000, nhắc nhở mọi ngườì quay về một thời hào hùng ấy. Lễ hội đình làng An Hải được tổ chức vào mồng 10 tháng 8 âm lịch hàng năm.
Sau lễ thỉnh văn khai mạc lễ hội tại đình, mọi người đổ xô ra bờ sông để xem thi lắc thúng – một môn thể thao mang đậm sắc thái sinh hoạt vùng biển.
Trong sân đình tổ chức nhiều trò chơi như truyền thống như cờ tướng, kéo co… Bên cạnh đó còn có các môn hiện đại như cầu lông, điền kinh… Xế chiều diễn ra hội thi múa lân. Khi dêm xuống, sau buổi xây chầu hát lễ diễn ra đầy sắc màu dân tộc, mọi người lại tề tựu về sân khấu trước đình xem hát tuồng. Sáng hôm sau, trong phần lễ chính thức, đại biểu các tộc họ cùng nhau ôn lại truyền thống tốt đẹp của làng, trước khi bước vào dâng lễ tế theo nghi thức cổ truyền dân tộc.
Lễ hội đình làng An Hải nhắc nhở mọi người luôn tự hào về một quá khứ hiển linh, dù trải qua bao năm tháng, tên đất – tên làng vẫn còn vang vọng những hồi quang oanh liệt không chỉ của một thành phố mà còn của cả một dân tộc.
3.Lễ hội làng Tuý Loan
Làng cổ Tuý Loan đã có trên 500 năm tuổi, đình làng cũng đã có trên 100 năm. Trải qua bao thăng trầm thời gian, đình Tuý Loan tuy không còn giữ được nguyên trạng nhưng vẫn còn vẻ uy nghi vốn có. Và hàng năm, vào ngày mồng 9 Tết, dân hai thôn Đông, Tây của làng cùng khách thập phương lại tập trung tại đây để mở hội. Lễ hội làng Tuý Loan thường diễn ra trong hai ngày.
Phần lễ gồm Lễ rước Sắc phong, nhạc lễ dâng hương tế Đình giúp con cháu tưởng nhớ năm vị tiền hiền Đặng, Lâm, Nguyễn, Trần, Lê tuân chiếu vua Lê Thánh Tôn đi mở mang bờ cõi về phương nam (năm Hồng Đức nguyên niên 1470), dừng chân chọn nơi đây để lập nghiệp khai khẩn làm ăn và đặt tên cho làng là Tuý Loan. Phần hội gồm nhiều trò chơi dân gian vui nhộn như đẩy gậy, vật tay, kéo co diễn ra ngay trước sân đình… Nghề làm bánh tráng vốn từ lâu đã góp phần làm nổi tiếng làng Tuý Loan nên trong phần hội không thể thiếu cuộc thi nướng bánh tráng. Hai thôn Đông, Tây thường cử ra những cô gái khéo tay nhất của thôn mình để tham gia cuộc thi này. Người chiến thắng trong cuộc thi không những mang lại vẻ vang cho thôn mình mà còn góp phần tôn vinh một nghề truyền thống lâu đời của làng.
Con sông Tuý Loan thơ mộng chảy ven làng đặc biệt trở nên sôi động trong ngày hội với cuộc đua ghe truyền thống của các trai làng. Trên bờ, dân làng và khách thập phương nhiệt tình và vô tư cổ vũ cho tất cả các đội ghe trong tiếng trống thúc giục lòng người. Chiến thắng của bất cứ đội ghe nào cũng sẽ mang lại một năm mới thịnh vượng cho làng. Ngày nay, lễ hội còn được bổ sung thêm nhiều trò vui như thi gói bánh tét, thi đi xe đạp chậm…càng làm cho không khí lễ hội thêm phần náo nhiệt.
Tham dự lễ hội đình làng Tuý Loan chính là một dịp để du khách gần xa hiểu thêm về một vùng đất, một phong tục và những con người chân chất đang gìn giữ truyền thống đáng quý của cha ông ngay trên mảnh đất quê hương mình.
4. Lễ hội Cầu ngư
Lễ hội Cá Ông (còn được gọi là lễ tế Cá Voi) là lễ hội lớn nhất của ngư dân thành phố Đà Nẵng. Thờ Cá Ông ở đây không chỉ được xem là sự tôn kính thần linh mà còn gắn liền với sự hưng thịnh của cả làng. ‘Ông’ là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn khi lênh đênh trên biển cả. Hàng năm, thường là sau khi ăn Tết xong, như dân tổ chức lễ tế cá Ông lồng ghép dưới hình thức Lễ hội Cầu ngư và lễ ra quân đánh bắt vụ cá nam. Tại Đà Nẵng, Lễ hội Cầu ngư được tổ chức ở những vùng ven biển như Mân Thái, Thọ Quang, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Hòa Hiệp…
Lễ hội được diễn ra trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lịch. Ngày đầu thiết lễ tiên thường, ngày sau là lễ tế chính thức. Trong ngày lễ, bàn thờ được trang hoàng hết sức rực rỡ, trang nghiêm. Các nhà đều đặt bàn hương án bày đồ lễ cúng. Trên mỗi tàu thuyền đều chăng đèn kết hoa. Làng chọn ra một ban nghi lễ gồm các cụ cao niên, hiền đức, có uy tín với bạn chài và không bị mắc tang chế. Vị chánh bái dâng đồ tế lễ (không được dùng hải sản) và đọc văn tế nói lên lòng biết ơn của dân làng đối với công đức Cá Ông và cầu mong mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn.
Rạng sáng ngày hôm sau, dân làng đánh trống làm lễ rước trên biển. Có nơi còn tổ chức lễ rước Ông từ làng này qua làng khác để bày tỏ sự đoàn kết giữa các vạn chài. Tất cả tàu thuyền ra khơi đến một vị trí đã định trước và vị chánh tế tổ chức “xin keo”. Đó là lễ Cá Ông chứng dám lòng thành của ngư dân ngoài biển. Vào nửa đêm hôm đó, dân làng làm lễ chánh tế bao gồm lễ khai mõ, đội học trò dâng hương. Về phần hội, tuỳ điều kiện, mỗi địa phương có một hình thức tổ chức riêng, nhưng cũng đều là các trò chơi dân gian vùng biển: lắc thúng, đua thuyền, bơi lội, kéo co, đá bóng… Về văn nghệ, ngoài hát tuồng, hát hò khoan, còn có một hình thức múa hát đặc trưng của Lễ hội Cầu ngư là múa hát bả trạo (bả: nắm, trạo: chèo đò) diễn tả tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong một con thuyền, vượt qua sóng to gió cả, mang về một mùa bội thu cho ngư dân.
Lễ hội Cầu ngư bày tỏ khát vọng được bình yên trong cuộc sống của ngư dân, những con người luôn phải đối mặt với nhiều bất trắc khi lênh đênh trên biển cả.
5.Lễ hội làng Hòa Mỹ
Địa danh Hoà Mỹ được xác lập trên bản đồ đất nước từ năm 1825 (Minh Mạng thứ 5), nay là khối phố Hoà Mỹ, phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Lễ hội đình làng diễn ra hàng năm vào ngày 12/01 âm lịch nhằm nhắc nhở tinh thần “uống nước nhớ nguồn” trong con cháu các tộc họ, kiểm điểm những việc đã làm được trong một năm và định hướng những việc sẽ thực hiện trong năm đến. Do hoàn cảnh chiến tranh, việc tổ chức lễ hội bị gián đoạn một tới gian dài, mãi đến năm 1994 mới được khôi phục trở lại.
Lễ hội đình làng Hoà Mỹ diễn ra trong một ngày rưỡi. Phần lễ theo nghi thức cổ truyền gồm lễ vọng và lễ hội kỵ chính thức. Phần hội có nhiều nội dung phong phú, truyền thống và hiện đại đan quyện vào nhau, tạo nên nét rất riêng cho lễ hội. Mở đầu phần hội bao giờ cũng là giải chạy việt dã truyền thống, thu hút đông đảo nông dân, thanh – thiếu niên, nam nữ học sinh tham gia. Trong khi người trẻ tuổi thi cắm hoa, thi làm bánh thì người cao tuổi biểu diễn thể dục dưỡng sinh, vui chơi bài chòi.
Khán giả bao giờ cũng thật đông quanh các trò chơi dân gian như kéo co, đập om… bởi cái không khí rất hội hè của chúng. Các tổ dân phố, các gia tộc, các đoàn thể có dịp ngồi lại bên nhau trong buổi sinh hoạt giao lưu văn hoá, trao đổi những kinh nghiệm về nếp sống đẹp trong đời thường để cùng giúp nhau tiến bộ. Các trích đoạn hát tuồng đan xen vào các tiết mục ca múa nhạc kịch của chương trình văn nghệ lễ hội cũng là một cách kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại.
Lễ hội đình làng giữa một khu phố như Hoà Mỹ là một nét rất riêng trong đời sống văn hoá của người dân Đà Nẵng.
6.Lễ rước Mục Đồng
Lễ rước Mục Đồng – lễ hội dành cho trẻ chăn trâu được tổ chức ở làng Phong Lệ, Hòa Châu, Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Ba năm một lần, dân làng lại tổ chức một lễ trọng: lễ rước mục đồng. Lễ diễn ra trong hai ngày cuối tháng ba âm lịch nhằm cầu một vụ mùa bội thu.
Chuyện kể rằng, làng Phong Lệ xưa có một cồn cỏ. Ngày nọ, có người xua đàn vịt lên cồn, chân vịt bỗng bị dính chặt xuống đất như có bàn tay ai đó níu lại. Từ đó cồn có tên là cồn Thần. Một hôm có đàn trâu trong làng chạy lạc lên cồn, đám trẻ chăn trâu đến tìm, nhưng không hề hấn gì cả. Từ đó có tiếng đồn lan ra là cồn Thần chỉ cho các trẻ chăn trâu đến gần mà thôi. Xóm Cồn về sau được gọi là xóm Đồng, là nơi tụ tập của các mục đồng trong làng. Sau nhiều thế hệ dần dần hình thành một lễ hội dành riêng cho các trẻ chăn trâu, gọi là lễ rước mục đồng.
Từ hạ tuần tháng ba âm lịch, khi công việc đồng áng đã vãn cũng là lúc các công việc sắp đặt cho lễ hội được bắt đầu. Các điền chủ từ trung nông trở lên, nghĩa là có vài mẫu ruộng và vài ba con trâu, trực tiếp đứng ra cáng đáng mọi việc. Làng trên xóm dưới rộn ràng chuẩn bị lễ hội. Ngoài cờ nhỏ của mục đồng, còn có cờ lớn của 13 tộc họ trong làng ngày đó. Cờ lớn cán bằng tre dài 5 m có treo các con giống. Nào là tứ linh (lân, long, quy, phụng), tứ nghệ (sĩ, nông, công, thương). Nhưng nhiều nhất vẫn là các dụng cụ sản xuất nông nghiệp như cày, bừa, cuốc, xẻng, dần, nia… Để được chiếm giải trong lễ hội, các tộc họ có điều kiện thường thi nhau rước thợ mộc Kim Bồng về tiện các con giống bằng gỗ rất công phu. Mang trên mình nhiều thứ như vậy nên cờ lớn thường rất nặng, phải chọn các lực điền với đầy đủ nai nịt ngang lưng mới đủ sức cầm cờ.
Chiều 29-3 âm lịch làm lễ dạo đồng. Đây là lúc con cháu sinh sống ở các nơi xa làng kéo về đông đủ. Mục đồng cầm cờ dạo quanh các cánh đồng tỏ ý cầu cho được mùa. Sáng ngày 30 chính thức diễn ra lễ rước. Trời chưa hửng sáng đã vang lên tiếng trống giục giã dân làng về dự lễ.
Tất cả tề tựu trong sân đình Thần, còn được gọi là đình Mục Đồng. Trùm mục (người cai quản các mục đồng) lễ phục tươm tất trịnh trọng tiến vào hậu tẩm khấn vái rồi cung thỉnh bài vị Thần Nông đặt vào kiệu. Kiệu rước được bài trí như kiệu rước Thần, nóc kiệu có 4 mái trang trí 4 giao lá, rèm kiệu được giăng hoa kết đèn rực rỡ, do 4 mục đồng cao như nhau khiêng.
Dẫn đầu đám rước là đoàn cờ mục đồng rồi đến cờ 13 tộc họ. Dàn cổ nhạc cùng với chiêng trống, kiểng cổ vang động một góc trời. Mỗi nhà có trâu đều sắm sửa lễ phẩm, thường là một mâm xôi với hoa quả, có khi một con gà hay một đầu heo, cho người đội theo đám rước. Dân làng nối đuôi đi sau cùng. Nổi bật hơn hẳn giữa đoàn người rồng rắn là kiệu rước, uy nghi, trang trọng tiến về cồn Thần.
Trong âm thanh dậy trời của trống chiêng nhã nhạc, dưới ánh sáng bập bùng của các ngọn đuốc, đám rước tạo nên một bức tranh thanh bình trên đường làng còn mờ trong sương sớm.
Mặt trời lên khỏi ngọn tre là lễ cũng vừa xong. Mọi người lại quay về với cuộc sống nông gia đời thường, nhưng trong lòng đã dấy lên một niềm tin: năm nay sẽ có một vụ mùa bội thu.
Lễ hội rước mục đồng ấm áp và rực rỡ sắc màu với những con người bình dị, những trò chơi dân gian hấp dẫn, những màn trình diễn độc đáo của trẻ chăn trâu là ấn tượng khó quên với du khách khi du lịch đến với Đà Nẵng.
7.Lễ hội Quan Thế Âm
Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức hàng năm vào ngày 19/2 Âm lịch tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ Tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), Lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn.
Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội.
Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung:
Lễ rước ánh sáng: Nghi lễ rước ánh sáng thường tổ chức vào tối ngày 18, gồm rước đuốc, rước kiệu, múa lân, múa rồng để cầu mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh, mà trong phật giáo ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện.
Lễ khai kinh: Lễ được tổ chức vào sáng sớm ngày 19, đây là lễ cầu nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh an lạc.
Lễ trai đàn chẩn tế: lễ này cũng được tổ chức vào sáng ngày 19 để cầu siêu, cúng thập loại chúng sinh, thường trước đó đồng bào phật tử gởi danh sách những người thân của mình đã mất đến chùa để làm lễ cầu siêu. Trong lễ này phải mời người có giới phẩm đứng ra làm lễ.
Lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc: lễ cúng được tổ chức vào sáng ngày 19, ngợi ca lòng từ bi bác ái của đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm và cầu nguyện cho dân tộc an bình, thịnh vượng.
Lễ rước tượng Quán Thế Âm: Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên Sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Lễ thường được tổ chức vào đêm ngày 18. Trong ngày lễ này các bô lão của các phường Hòa Hải, Hòa Quý khăn áo chỉnh tề, tay cầm cờ lọng, đuốc, lồng đèn, có đội nhạc cổ và chiêng trống đi theo. Sau khi làm lễ và đọc văn tế, đoàn bô lão sẽ dẫn đầu đoàn rước cộ xuống bờ sông Cầu Biện để mở hội hoa đăng, rồi từ chùa Quán Thế Âm đi quanh các khu phố qua các làng đá mỹ nghệ Non Nước, xuống khu du lịch Non Nước và trở về lại lễ đài với lộ trình dài hơn 2km.
Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá – thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại như hội hoá trang, hát dân ca, thi cờ, nhạc, hoạ, điêu khắc, múa tứ linh, thả đèn trên sông, hát tuồng… các hoạt động văn hóa như triển lãm thư pháp và tranh thủy mặc, hội thi thuyết minh về danh thắng Ngũ Hành Sơn, hội thi nấu ăn chay…
Với nhiều hoạt động văn hóa – thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn.