Trọng lượng cơ thể có thể đạt gần 1 tấn và có một số đang nằm trong nguy cơ bị tuyệt chủng do nạn săn bắt và môi trường sống thay đổi . Dưới dayd là 5 loài rùa nặng nhất từ trước đến nay.
1.Rùa da
Rùa da hay rùa luýt (danh pháp khoa học: Dermochelys coriacea) là loài rùa biển lớn nhất và là loài bò sát lớn thứ tư sau 3 loài cá sấu. Đây là loài duy nhất còn sống trong chi Dermochelys. Chúng rất dễ phân biệt với các loài rùa biển khác ngày nay vì chúng không có mai. Thay vào đó lưng của chúng được bao phủ bởi lớp da và thịt trơn. Dermochelys coriacea là loài duy nhất tồn tại trong họ Dermochelyidae. Rùa da không có răng mà chỉ có các điểm trên rìa cắt sắc nhọn thuộc môi trên với các gai mọc ngược trong họng giúp nó nuốt thức ăn. Nó có thể lặn sâu đến 1.200 mét (4.200 feet). Chúng còn là loài bò sát di chuyển nhanh nhất thế giới và được ghi nhận năm 1992 bởi sách kỷ lục Guinness với tốc độ 35,28 kilômét một giờ (21,92 mph)(9,8 m/s) trong nước.
2.Rùa Quản Đồng
Rùa Quản Đồng hay Đú (danh pháp hai phần: Cretta caretta) thuộc họ Vích, Bộ rùa biển,là một loài rùa biển được phân phối trên toàn thế giới. Loài này phân bố khắp Việt Nam, nhưng tập trung ở khu đảo Bạch Long Vĩ đến Cát Bà.
Loài rùa này là một trong những loài rùa lớn nhất, có chiều dài trung bình khoảng 1,8m khi trưởng thành hoàn toàn, mặc dù vài mẫu vật lớn hơn đã được phát hiện. Loài này có trọng lượng vào khoảng trên 300 kg và dưới 400 kg, với những mẫu vật lớn nhất nặng khoảng hơn 400 kg (1.000 lb). Màu vỏ dao động từ vàng đến nâu trong màu sắc, và vỏ thường màu nâu đỏ. Không có sự khác biệt về giới tính bên ngoài cho đến khi con rùa trở thành một con lớn, sự khác biệt rõ ràng nhất là con đực trưởng thành có đuôi dày hơn và plastrons ngắn hơn so với những con cái. Đây là loài thuỷ sinh quý hiếm có trong Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong Công ước CITES, có nguy cơ tuyệt chủng, tuyệt đối cấm đánh bắt, mua bán, vận chuyển, kể cả trứng của chúng.
3.Đồi mồi dứa
Đồi mồi dứa (Chelonia mydas) là một loài rùa biển thuộc họ Vích. Đây là loài duy nhất của chi Chelonia. Đồi mồi dứa phân bố tại khắp các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, với hai quần thể khá khác biệt tại Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.
Giống như nhiều loài rùa biển khác, đồi mồi dứa di cư với khoảng cách khá xa giữa khu vực kiếm ăn và nơi sinh sản. Nhiều hòn đảo trên thế giới được gọi là đảo Rùa do có đồi mồi biển làm tổ và đẻ trứng trên bờ biển. Rùa cái tìm vị trí thích hợp, đào tổ và đẻ trứng vào ban đêm. Sau đó, rùa con nở ra từ trứng và xuống biển. Đồi mồi dứa có thể sống đến 80 năm trong môi trường tự nhiên.
4.Rùa cá sấu
Rùa cá sấu(Macrochelys temminckii) là một trong những loài rùa nước ngọt lớn nhất thế giới. Danh pháp temminckii được đặt tên để vinh danh nhà động vật học Hà Lan Coenraad Jacob Temminck.
Loài rùa này có đầu to, bộ hàm cực khỏe, mai nhiều gai, cùng vẻ hung dữ, nên chúng thường được gọi là “quái thú rùa”. Hình ảnh chúng gợi đến loài khủng long thời xưa. Mai của chúng có 3 hàng gai. Những hàng gai này chứa rất rất nhiều đầu dây thần kinh nhạy cảm. Có báo cáo chưa được kiểm chứng về con rùa nặng 183 kg ở Kansas năm 1937, nhưng một trong những mẫu vật lớn nhất có kiểm chứng gây tranh cãi. Ở bể sinh vật cảnh Shedd Chicago là một con rùa 16 năm tuổi cân nặng 113 kg, được gửi đến bể cá cảnh bang Tennessee. Một con khác cân nặng 107 kg tại sở thú Brookfield ở ngoại ô Chicago. Chúng thường không phát triển đến kích thước lớn, trung bình con trưởng thành có mai dài khoảng 40,4 đến 80,8 cm (15,9 đến 31,8 in) với khối lượng 68 đến 80 kg (150 đến 176 lb). Con đực thường lớn hơn con cái.Trong số các loài rùa nước ngọt còn sinh tồn, chỉ có các loài rùa mai mềm (ba ba) trong chi Chitra, Rafetus, và Pelochelys có thể vượt qua về kích thước.
5.Rùa lưng phẳng
Rùa lưng phẳng (danh pháp khoa học: Natator depressus) là một loài rùa biển đặc hữu của thềm lục địa Úc. Rùa lưng phẳng thuộc về họ Cheloniidae và là loài duy nhất được tìm thấy trong chi Natator.
Rùa lưng phẳng thường được tìm thấy tại các vịnh, biển nông, rạn san hô, các cửa sông và đầm phá trên bờ biển phía bắc của Australia và ngoài khơi bờ biển của Papua New Guinea.
Chúng có thể kiếm ăn ở Indonesia và Papua New Guinea, nhưng nó chỉ làm tổ ở Úc.Vùng quan trọng nhất là đảo cua ở phía tây eo biển Torres. Nó cũng có xuất hiện ra trên các đảo phía nam Great Barrier Reef, và trên đất liền những bãi biển và hải đảo phía bắc của Gladstone.