Việc săn bắn bừa bãi cũng như thay đổi về môi trường sống đang khiến những loài cá voi sau đang có nguy cơ bị lãng quên trong tương lai.
1.Northern Right Whale
Cá voi trơn Bắc Đại Tây Dương (danh pháp hai phần: Eubalaena glacialis) là một loài cá voi thuộc họ Cá voi trơn (Balaenidae). Cá voi trơn Bắc Đại Tây Dương phân bố ở Bắc Đại Tây Dương. Thân dài cm. Thức ăn của chúng gồm chủ yếu là copepoda và nhỏ khác động vật không xương sống như nhuyễn thể, pteropoda, và ấu trùng hàu. Con trưởng thành dài trung bình 45-55 foot (14–17 m) và nặng tới 70 tấn, các mẫu vật lớn nhất đo được 60 foot (18 m) và 117 tấn. Con cái lớn hơn con đực.
2.Southern Right Whale
Cá voi trơn phương nam (danh pháp hai phần: Eubalaena australis) là một loài động vật thuộc họ Cá voi trơn (Balaenidae). Cá voi trơn phương nam dành mùa hè kiếm mồi ở viễn Nam Thái Bình Dương, có thể gần Nam Cực. Nó di chuyển về phía bắc vào mùa đông để sinh sản và có thể được nhìn thấy bởi các bờ biển của Argentina]], Úc, Brasil, Chile, Namibia, Mozambique, Peru, Tristan de Cunha, Uruguay, Madagascar, New Zealand và Nam Phi. Tổng dân số được ước tính là khoảng 10.000 cá thể. Kể từ khi hoạt động săn bắn cá voi chấm dứt, tỷ lệ tăng số lượng được ước tính đã tăng 7% một năm.
3.Bowhead Whale
Cá voi đầu cong, cá voi Bắc cực, cá voi Greenland hay cá voi Nga (danh pháp hai phần: Balaena mysticetus) là một loài cá voi tấm sừng hàm thuộc họ Balaenidae trong phân bộ Mysticeti. Loài cá voi chắc nịch, sẫm màu này không có vây lưng, dài từ 14-18m, nặng từ 60-80 tấn. Nó sống hoàn toàn ở vùng biển Bắc cực và gần Bắc cực giàu thức ăn, không giống như các loài cá voi khác di cư tới vùng vĩ độ thấp để kiếm ăn hoặc sinh sản. Cá voi đầu cong là động vật có vú sống lâu nhất, và có miệng lớn nhất trong số các loài động vật.
Cá voi đầu cong đã là mục tiêu của nghề săn bắt cá voi từ rất lâu. Quần thể của nó đã bị suy giảm mạnh trước khi có sự tạm ngừng săn bắt năm 1966. Quần thể hiện tại được ước tính là trên 24.900 cá thể trên toàn thế giới, giảm từ khoảng 50.000 con trước khi có nghề săn bắt cá voi.
4.Blue Whale
Cá voi xanh, còn gọi là cá ông là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài 30 mét (98 ft)[10] và nặng 180 tấn (200 tấn thiếu) hay thậm chí hơn nữa, nó là động vật lớn nhất còn tồn tại và nặng nhất từng tồn tại.
Cơ thể cá voi xanh dài và thon, có thể có màu hơi xanh-xám ở mặt lưng và sáng màu hơn ở mặt bụng. Có ít nhất 3 phân loài cá voi xanh: B. m. musculus sống ở vùng biển bắc Đại Tây Dương và bắc Thái Bình Dương, B. m. intermedia sống ở Nam Băng Dương và B. m. brevicauda (cá voi xanh lùn) sống ở Ấn Độ Dương và nam Thái Bình Dương. Giống như các loài cá voi khác, thức ăn của chúng chủ yếu là sinh vật phù du và giáp xác nhỏ.
Trước thế kỉ 20, cá voi xanh tồn tại với số lượng cá thể lớn ở hầu hết các đại dương trên thế giới. Nhưng hơn 100 năm qua, chúng bị săn bắn đến mức gần như tuyệt chủng cho đến khi được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế vào năm 1966. Theo một báo cáo vào năm 2002, có xấp xỉ 5.000 – 12.000 cá thể sống trên toàn thế giới,bao gồm ít nhất 5 nhóm. Trước khi bị săn bắt ráo riết, quần thể cá voi xanh lớn nhất ở vùng biển Nam cực có khoảng 239.000 cá thể (từ 202.000 tới 311.000)] Các quần thể nhỏ hơn khác (khoảng 2000 cá thể) tập trung ở các vùng biển Đông bắc Thái Bình Dương, Nam Cực. Có 2 quần thể khác ở Bắc Đại Tây Dương và ít nhất 2 quần thể nữa ở Nam Bán Cầu. Năm 2014, số lượng cá voi xanh tại California đã phục hồi đến mức gần như trước thời kì săn bắt.
5.Humpback
Cá voi lưng gù (danh pháp hai phần: Megaptera Novaeangliae) là một loài cá voi tấm sừng hàm. Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ 12–16 mét (39–52 ft) và cân nặng khoảng 30-36 tấn. Cá voi lưng gù có một hình dạng cơ thể đặc biệt, vây ngực dài khác thường và đầu có u. Nó là một con vật nhào lộn, thường trồi lên mặt nước. Con đực tạo ra bài hát phức tạp, kéo dài từ 10 đến 20 phút và được lặp đi lặp lại trong nhiều giờ tại một thời điểm. Mục đích của bài hát là chưa rõ ràng, mặc dù nó xuất hiện để có một vai trò quan trọng trong giao phối. Loài này được tìm thấy trong đại dương và biển trên toàn thế giới, cá voi lưng gù thường di chuyển khoảng cách lên đến 25.000 kilômét (16.000 mi) mỗi năm. Cá voi lưng gù chỉ ăn ở vùng cực vào mùa hè và di cư đến các vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới để giao phối và sinh sản vào mùa đông. Trong mùa đông, cá voi lưng gù nhịn ăn và tiêu dần số mỡ dự trữ. Chế độ ăn của cá voi lưng gù gồm có động vật thân mềm và cá.