Mỗi vùng đất trên nước ta đều có những bản sắc riêng với những lễ hội đặc sản vùng miền khác nhau . Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem những lễ hội truyền thống đặc sắc ở Kon Tum nhé.
1.Lễ hội “Ngăh Yang pơ dei kăm hau” của người Jrai A ráp ở Sa Thầy
“Ngăh Yang pơ dei kăm hau” là lễ hội cúng Yàng trước khi đưa lúa về kho của người Jrai A ráp. Vào khoảng tháng 9, tháng 10 hàng năm, khi những bông lúa ngoài rẫy sắp bước vào kỳ chín rộ, già làng liền triệu tập một cuộc họp gồm những người có trách nhiệm, bàn bạc công việc chuẩn bị cho lễ hội.
Tuỳ thuộc vào tín hiệu mùa màng mà quyết định quy mô tổ chức. Sau khi đã thống nhất về thời gian, mức đóng góp của các chủ hộ, già làng với vai trò là tổng chỉ huy, phân công các thành viên thực hiện những công việc cụ thể như mua trâu, dê, heo, gà làm vật hiến tế, chặt cây dựng nêu.v.v..Không khí chuẩn bị nhanh chóng lan toả, tất bật trong mỗi gia đình.
Thông thường, thời gian tiến hành lễ hội được tổ chức trong 3 ngày. Ngày đầu tiên, mọi người tập trung làm cây nêu. Từng nhóm nghệ nhân chịu trách nhiệm mỗi công việc một cách trôi chảy, thành thạo. Già làng chọn vị trí để tốp thanh niên đào hố, cắt máu gà đổ xuống, thắp lửa khấn Yàng rồi dựng cây nêu. Sau đó trâu được dắt về, cột vào thòng lọng kết bằng dây mây vô cùng chắc chắn. Ngay lúc này, một con heo nhỏ được hiến sinh lấy máu quết vào cây nêu. Đêm hôm đó, cả làng không ngủ mà thực hiện lễ thức góp gạo thiêng. Một ban đại diện đốt đuốc đi đến từng nhà, chủ hộ lấy một nắm gạo thơm góp vào gùi chung của làng để đưa về nhà rông.
Ngày thứ hai mới thực sự là chính lễ. Khi mặt trời vừa thức, cồng chiêng vang lên. Âm thanh rộn rã của chiêng bằng, chiêng núm vọng vào vách núi, trầm bổng lan toả trong không gian như báo với thần linh dân làng bắt đầu hành lễ. Già làng trong trang phục truyền thống, vai mang kiếm, tiến hành các nghi thức rắc gạo thiêng, dâng rượu thiêng, khấn Yàng và nhảy múa rồi chém nhẹ vào mình trâu. Gọi là chém vì người Jrai A ráp chỉ đâm trâu khi mừng chiến công, mừng chiến thắng. Tiếng cồng chiêng vang lên rộn rã, trầm hùng. Vòng xoang bắt đầu hình thành rộng dần, nhiều lớp dần. Trâu được tốp thanh niên lực lưỡng quật ngã, cắt lấy máu, treo đầu và đuôi lên cây nêu. Lúc này bên trong nhà rông đã chuẩn bị sẵn hai ghè rượu thiêng, giá trị mỗi ghè lên đến vài chục con trâu. Cùng với rượu, một ít tim, gan trâu được bỏ vào vật dụng đan bằng cây lồ ô tươi, kết hoa văn vô cùng tinh tế để dâng lên Yàng. Già làng tiếp tục chủ trì nghi lễ, với lời khấn đại ý cảm ơn Yàng đã cho mưa, nắng thuận hoà, cây lúa không bị con heo, con nai, con chuột rừng phá hoại. Nghi lễ này chỉ có già làng và những người uy tín, dân làng kính trọng mới được tham gia. Mọi người vừa lầm rầm khấn cầu, vừa chấm ngón tay vào ghè rượu thiêng rồi đưa lên miệng ngậm. Tiếp đến là lễ thức nắm dây, một thủ tục tâm linh vô cùng độc đáo gọi là Hrế Prang được tiến hành. Sợi dây cột từ cổ ghè rượu thiêng, dòng xuống bên dưới nhà rông, dân làng nắm vào đó tạo thành dòng người tiếp nối dài ra mãi. Theo quan niệm, sợi dây là mối liên hệ giao cảm giữa con người với thần linh. Khi nắm dây, những mong muốn của mỗi người sẽ được thần linh chấp nhận giúp đỡ. Nắm dây còn biểu hiện tính cộng đồng rất cao, mang ý nghĩa gắn kết mọi thành viên trong làng như một khối thống nhất. Phần nghi lễ đến lúc này coi như đã hoàn tất. Mọi người bắt tay vào chia thịt cho các hộ. Đồng thời từ các hướng, dân làng cõng rượu đến góp để chuẩn bị cho phần hội thâu đêm. Những ghè rượu cứ nối tiếp nhau thành hàng, thành lối. Chủ ghè vồn vã mời khách hết căn này đến căn khác, khách phải uống cho thật say mới thực tình. Khi đã chuếnh choáng hơi men, cũng là lúc những điệu hát giao duyên bắt đầu cất lên, cùng những ánh mắt đắm say, tình tứ.
Ngày thứ ba chỉ mang tính nội bộ. Già làng và những người có trách nhiệm xem xét những cái được và chưa được về lễ hội vừa tổ chức để rút kinh nghiệm. Tiếp tục ăn đầu trâu, uống rượu, bàn việc thu hoạch lúa đại trà sao cho nhanh gọn, tránh thất thoát. Trồng cây Pơ lang, một nhánh nhỏ như cây gậy nằm giữa các cột “Gưng”. Đây là loại cây có sức sống mãnh liệt, tượng trưng cho sức mạnh của cộng đồng và kết thúc bằng việc treo xương đầu trâu lên mái nhà rông.
Lễ hội “Ngăh Yang pơ dei kăm hau” thực chất là một cách thể hiện văn hoá ứng xử của con người với thần linh. Nó xuất phát từ cuộc sống lao động sản xuất vốn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Theo cách nghĩ của người Jrai A ráp, nhờ có Yàng che chở, phù hộ nên thóc lúa mới đầy kho. Vì vậy tổ chức lễ hội là để tỏ lòng biết ơn, là hành động trả nghĩa đối với thần linh. Đồng thời thông qua lễ hội, là dịp để từng thành viên trong cộng đồng làng nhận thức rõ trách nhiệm, quyền lợi của mình. Biểu hiện rõ nhất trong lễ thức nắm dây, ai không tự nguyện tham gia, có nghĩa người đó tự tách ra khỏi cộng đồng. Lễ hội còn là môi trường nhằm thoả mãn nhu cầu được giao lưu của con người, sau những tháng ngày lao động miệt mài vất vả. Trải qua bao đời nay, mặc dù chịu nhiều tác động của môi trường xã hội, thiên nhiên…nhưng lễ hội “Ngăh Yang pơ dei kăm hau” vẫn được người Jrai A ráp lưu giữ, khẳng định sức sống mãnh liệt trong cuộc sống tinh thần của cộng đồng. Ở lễ hội này, yếu tố duy tâm giống như một lớp bụi mờ, phía sau nó lấp lánh những giá trị văn hoá vượt ngưỡng tâm linh.
2.Lễ hội mừng nhà Rông mới
Lễ hội mừng nhà Rông mới của đồng bào dân tộc Giẻ Triêng tại làng Đăk Gô, xã Đăk Kroong, huyện Đăk Glei. Theo tín ngưỡng của đồng bào, con trâu là vật hiến sinh để cúng lễ dâng lên thần linh với mong muốn cầu xin hạnh phúc, hòa bình hay một mùa màng bội thu.
Người Giẻ Triêng trước đây có cuộc sống du canh du cư. Khi tìm được một địa điểm để lập làng mới, họ thường ở lại khoảng từ 5 – 7 mùa rẫy. Sau khi đất đai đã bạc màu họ đi tìm vùng đất mới để lập làng. Việc đầu tiên khi lập làng mới là phải tìm địa điểm để xây dựng nhà Rông. Mỗi làng Giẻ Triêng thường có từ 25-30 nóc nhà. Sau khi đã làm lễ tế Giàng, họ cùng chung tay xây dựng nhà Rông, ngôi nhà lớn của cộng đồng mình, là nơi để tụ họp bà con, để bàn bạc công việc làm ăn và giải quyết mọi câu chuyện của cộng đồng.
Khi nhà Rông đã hoàn thành, các gia đình đều chung sức vào dựng nhà cho dân làng, từ ngôi nhà chủ làng, các gia đình có vị trí trong làng, sau đó đến những người neo đơn, đàn bà góa không có điều kiện tự làm nhà… Đến khi tất cả các ngôi nhà đã hoàn thành, người Giẻ Triêng làm lễ mừng nhà Rông mới.
Lễ mừng nhà Rông mới của đồng bào Giẻ Triêng ở Kon Tum được bắt đầu bằng những công việc rất nhỏ: Chị em phụ nữ xuống suối bắt cá, đi hái rau rừng…, các chàng trai vào rừng săn bắn lấy thực phẩm cho lễ mừng nhà Rông mới. Không gian lễ hội mừng nhà Rông mới của người Giẻ Triêng bao giờ cũng phải có cây nêu, rồi đến con trâu. Những chàng trai có bàn tay khéo léo tài hoa sẽ được các già làng chọn vào rừng chặt cây nêu cúng Giàng. Trước khi đi, chàng trai Giẻ Triêng phải lên nhà Rông ngủ chay 3 ngày 3 đêm, sau đó họ xuống suối tắm rửa sạch sẽ rồi mới được vào rừng chặt cây về làm cây nêu.
Có thể nói, cây nêu như một tác phẩm nghệ thuật tổng hợp, mà ở đó hội tụ đủ yếu tố từ hội họa, điêu khắc, nghề thủ công truyền thống… Những cành nêu trĩu nặng tượng trưng cho mùa màng bội thu, tượng trưng những bông lúa, quả bắp trĩu hạt. Cây nêu chính vươn thẳng lên trời cao tượng trưng cho con đường lên trời, chuyển lời cúng của chủ lễ, lời cúng của già làng, chuyển lời cầu xin của bà con lên thần linh trên trời để mong muốn một cuộc sống no đủ, vui vẻ hạnh phúc, không có chiến tranh, dịch bệnh xảy ra, làm ăn mùa sau luôn được nhiều thóc lúa hơn mùa trước; trâu, bò, heo, gà luôn nằm chật gầm sàn, làng không có chiến tranh, dịch bệnh xảy ra…
Cùng với cây nêu, thì con trâu cũng là con vật rất có ý nghĩa đối với người Giẻ Triêng. Nếu như với người Kinh, con trâu là đầu cơ nghiệp, thì đối với người Giẻ Triêng, con trâu còn có ý nghĩa hơn thế, nó là một người bạn thân thiết, đó là con vật thiêng liêng của họ. Bởi đồng bào Giẻ Triêng theo chủ nghĩa đa thần, con trâu là vật thiêng liêng cúng Giàng, là vật thế mạng họ để cầu xin thần linh cho buôn làng khỏe mạnh, vì vậy họ vô cùng yêu quý con trâu. Chính vì vậy, trong lễ mừng nhà Rông mới không thể thiếu lễ đâm trâu.
Một nghi lễ hết sức đặc biệt trước ngày diễn ra lễ đâm trâu là lễ “khóc trâu”. Khi mặt trời của ngày hôm trước đã lặn, con trâu đã được cột vào thân cây nêu, bà con trong làng tổ chức đánh cồng chiêng, khóc trâu suốt một đêm ròng. Họ cảm ơn con trâu đã vất vả, đã phải chịu đựng hy sinh, chịu đựng đau đớn thay họ để làm vật hiến sinh cúng Giàng, để cầu cho dân làng họ được khỏe mạnh, no ấm… Sau một đêm đánh cồng chiêng múa hát cùng trâu, than thở cùng trâu, tâm sự cùng trâu, cầu xin trâu giúp đỡ họ… mới đến lễ đâm trâu.
Ngày hôm sau, trước khi tiến hành nghi lễ đâm trâu, già làng sẽ thực hiện nghi lễ để con trâu trở thành con trâu thiêng, trở thành vật hiến sinh cúng Giàng của người Giẻ Triêng. Họ cắm vào sừng trâu những chùm hoa sặc sỡ. Sau khi nghi lễ được tiến hành xong, người dân trong làng hò reo, các chàng trai vừa nhảy vừa đánh cồng chiêng vòng quanh cây nêu và con trâu. Những phụ nữ cùng nhau múa những điệu múa mộc mạc đơn giản nhưng vô cùng sinh động thể hiện những động tác trong lao động sản xuất của người Giẻ Triêng, từ làm cỏ lúa, gieo hạt, xua đuổi sâu bọ phá hại mùa màng đến những động tác thể hiện việc chào mời khách vào cùng chơi, cùng vui hội với họ… Khi những người tham gia lễ hội như được thông linh với thần, họ trở nên thăng hoa, nhịp chiêng của các chàng trai ngày càng náo nức, nhộn nhịp, các cô gái cũng chuyển từ điệu múa xoang sang điệu Bông rốk vô cùng mạnh mẽ… Theo sự phân công của già làng, một chàng trai khỏe mạnh trong làng cầm giáo đuổi theo và đâm vào con trâu thiêng đã được cột sẵn. Sau một vài nhát giáo đâm tượng trưng, người trong làng đưa trâu đi mổ, thịt trâu được chia đều cho tất cả mọi người dân trong làng, ai cũng có phần để được may mắn.
3.Lễ cúng đất làng của người Ba Na
Lễ hội Cúng Đất làng của người Ba Na được tổ chức hàng năm vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch khi chuẩn bị vào vụ sản xuất hoặc khi dọn đến vùng đất mới.
Theo quan niệm của người Ba Na (Kon Tum), con người từ khi sinh ra đến khi xuống mồ phải trải qua nhiều quá trình của mối quan hệ ứng xử; mối quan hệ Người – Người (cá nhân với cá nhân), mối quan hệ cá nhân với cộng đồng; mối quan hệ cá nhân, cộng đồng với đấng siêu nhiên – Giàng. Trong khi điều kiện sinh tồn của các dận tộc còn gặp rất nhiều khó khăn phải chống chọi với thiên nhiên, thú dữ, bệnh tật, đói nghèo, chết chóc… mà trình độ nhận thức khoa học của con người hạn chế. Do đó, vòng đời người cũng gắn liền với hệ thống Lễ – Hội tương ứng trong mỗi thời kỳ, tình huống cụ thể. Có Lễ Bỏ Mả (Pơ Thi), Lễ Ăn Trâu, Lễ hội mừng Nhà rông mới, Lễ cúng Đất làng…
Dân làng Ba Na làm lễ cúng đất làng vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch khi chuẩn bị vào vụ sản xuất hoặc khi dọn đến vùng đất mới.
Trước hôm dựng làng đồng bào Ba Na làm lễ kéo dài 2 ngày. Họ khấn các thần linh phù hộ cho công việc làm ăn thuận lợi, và thông báo cho thần linh biết công việc làm ăn trong năm mới.
4.Lễ hội Puh Hơ Drih
Người Rơ Ngao thuộc dân tộc Ba Na (còn được gọi là Ba Na Rơ Ngao) sống tại làng Đắk Wơk, xã Hơ Moong, huyện Sa Thầy. Lễ hội Puh Hơ Drih được tổ chức sau khi người dân Rơ Ngao thu hoạch xong mùa màng.
Lễ hội của các tộc người ở Kon Tum có dáng vẻ riêng mang tính khu vực. Lễ hội cộng đồng được sản sinh trong điều kiện, hoàn cảnh sống, lao động sản xuất gắn liền với núi rừng mênh mông vô tận; chính từ đó, nó chứa đựng một sắc thái văn hóa riêng – văn hóa lấy con người làm chủ, lấy đất trời làm khuôn mẫu, văn hóa ấy là sự hài hòa của nắng mưa, của núi rừng và nương rẫy.
Lễ hội Puh Hơ Drih diễn ra thường sau khi mùa màng thu hoạch xong, chủ làng tổ chức cho bà con sửa sang máng nước, sửa nhà rông sau đó tổ chức lễ hội. Theo quan niệm của người Rơ Ngao, lễ hội nhằm cầu cho dân làng ấm no, không có chiến tranh, dịch bệnh, xua đuổi tà ma và các thế lực xấu…
Lễ hội được tổ chức tại nhà Rông, bắt đầu với các phần lễ cúng tế, hiến tế với các con vật hiến sinh như: gà, heo, bò… Sau đó, tất cả dân làng cùng đánh cồng chiêng, trình diễn trang phục cổ truyền rồi liên hoan ẩm thực, hát dân ca…
Theo người dân trong làng, lễ hội này đã được tổ chức cách đây trên 40 năm, các vật được tế hiến như bò, heo, gà, dê… cùng nhiều món ăn ẩm thực đặc sắc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca… để cầu mưa thuận gió hòa, mọi người đoàn kết thương yêu nhau, cầu mùa màng tươi tốt bội thu, xua đuổi tà ma, dịch bệnh…
Lễ hội Puh Hơ Drih góp phần phục dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống độc đáo trong các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum.
5.Lễ hội mừng lúa mới của dân tộc Xê Đăng nhánh Xơ Teng
Thông thường, lễ hội “mừng lúa mới” của người Xê Đăng, nhánh Xơ Teng chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn thứ nhất chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là ăn lúa mới tại mỗi gia đình (Ka pa neo) và giai đoạn thứ hai là uống rượu mừng lúa mới tại cộng đồng làng (Onđrô tơ triêng).
Ở giai đoạn thứ nhất, khi phát hiện lúa đã chín, chủ hộ đưa các thành viên trong gia đình đến rẫy lúa của mình, chủ hộ dùng cây le tươi có lá đánh dấu các vị trí chuẩn bị tuốt lúa, đến chỗ lúa chín đều nhất, chủ hộ đọc lời khấn : “ Ô mo hua bă, êh ngăn ngin pê ka, Trôh ka, Hmeh păng Ka kơ chai, I phai, I Rih đi đo” (Ơ Thần lúa, hôm nay tôi xin phép được thay mặt mọi người trong gia đình, xin được lấy nắm lúa đầu tiên này, xin được rước hồn lúa về với gia đình chúng tôi cho chúng tôi được no đủ ); sau đó, chủ hộ tuốt nắm lúa đầu tiên làm phép, cả gia đình bắt đầu công việc tuốt lúa. Tuốt lúa xong, họ đưa lúa về kho (gần rẫy lúa) để cất giữ, mỗi gia đình chỉ mang một gùi lúa lớn về nhà để cúng lúa mới, trên đường mang lúa về nhà, khi gặp ngã ba, ngã tư, đường rẽ…,họ bẻ một cành cây chắn ngang các lối đi phụ, chỉ để lại một lối đi chính từ kho lúa về nhà mình với suy nghĩ không để cho hồn lúa đi lạc lối khác.
Khi đã mang lúa về đến nhà, các gia đình lấy lúa rang cho khô và giã, lấy gạo nấu một nồi cơm lớn, thức ăn chuẩn bị trước của mỗi gia đình để ăn cơm mới gồm: thịt rừng, cá suối, rượu ghè. Họ bày cơm mới và thức ăn, rượu ghè ra giữa nhà, chủ hộ đọc lời khấn: “ Tô cheng Kông, po ro Ka pa neo, tiên tơ Đră cheng, tô đi đo” (Hôm nay hồn lúa đã về với chúng ta, chúng ta cùng nhau đánh chiêng, uống rượu, mừng hồn lúa về với chúng ta, cho chúng ta được no đủ). Khấn xong, chủ hộ nắm vắt cơm đầu tiên để ăn, uống rượu, sau đó, mọi người trong gia đình cùng ăn, uống rượu, múa hát đánh chiêng vui vẻ cho đến tận đêm khuya, cuộc vui tạm nghỉ.
Khi tất cả các gia đình trong làng đã ăn mừng lúa mới (Ka pa neo) từng gia đình xong, già làng tập trung các chủ hộ để thông báo lễ hội uống rượu “mừng lúa mới” của tất cả cộng đồng làng (On đrô tơ triêng). Trong lễ này, già làng đóng vai trò chủ lễ. Già làng thông báo cho tất cả các gia đình trong làng chuẩn bị thức ăn như: thịt rừng, chim chuột, cá suối , rau măng, rượu ghè,v. v…và một công việc không thể thiếu trong lễ hội uống rượu mừng lúa mới đó là phong tục dựng cây nêu, công việc này do nam giới trong làng thực hiện (nữ không được tham gia) mọi công việc chuẩn bị đã xong, lễ hội “Mừng lúa mới” bắt đầu.
Từ sáng sớm của ngày bắt đầu lễ hội, tất cả các gia đình trong làng đều phải đóng kín cửa, không ai được phép ra vào, cơm và các loại thức ăn được nấu sẵn và để lên giàn bếp, rượu ghè cũng được các gia đình chuẩn bị đầy đủ. Già làng là người đầu tiên được phép mở của và đi một mình đến nhà Rông; sau đó, già làng đánh một hồi trống báo hiệu cho tất cả nam giới trong làng mang lễ vật như: Heo, gà, cá suối, rượu ghè tập trung về nhà Rông. Lễ vật được bày tại cột chính giữa nhà Rông. Già làng đọc lời khấn: “ Ô Noa Pôk, ô Noa Sai. Êh lăm Trôh a nghiên ăm nghiên Pê Ka, Troh Hnăm nêu Trỗ ăn pôi ta hra, Pôi ta mo ngua” (Ơ Giàng, ơ Thần lúa, hôm nay hồn lúa về với làng chúng tôi, chúng tôi cầu mong thần lúa cho chúng tôi sang năm mới và mãi mãi đừng thiếu lúa để ăn, dân làng không phải đói, xin hồn lúa hãy ở với chúng tôi, cho chúng tôi được no đủ). Sau lời khấn, già làng ăn cơm mới và uống rượu làm phép, các thành viên trong làng lần lượt uống rượu và ăn cơm mới.
Uống rượu ở nhà Rông xong, già làng đưa tất cả mọi người ở nhà Rông lần lượt đi đến từng gia đình trong làng (đoàn đi theo hướng tay trái, già làng là người đi đầu tiên) đến mỗi nhà, các gia đình mang cơm rượu, thức ăn ra tiếp đoàn . Già làng làm phép và sau đó mọi người cùng ăn cơm, uống rượu tượng trưng, rồi lại tiếp tục đi đến nhà khác. Khi đã đi đến tất cả các gia đình trong làng, đoàn lại quay lại nhà Rông, và lúc này tất cả các lễ vật được đưa ra vị trí cây nêu trước nhà Rông. Già làng thông báo cho tất cả các thành viên trong làng (kể cả phụ nữ) tập trung về nhà Rông để mở hội “mừng lúa mới”. Rượu ghè và thức ăn từ mỗi gia đình được lần lượt mang tới nhà Rông, cả cộng đồng làng cùng uống rượu, múa hát, đánh cồng chiêng và tổ chức các trò chơi, trò diễn dân gian cho đến tận khuya. Khi lửa đã tàn, rượu đã nhạt, mọi người tạm nghỉ, lễ hội chính “Mừng lúa mới” của người XêĐăng, nhánh Xơ Teng ở Đăk Tô-Kon Tum xem như kết thúc; những ngày sau họ chỉ kéo dài việc uống rượu vui vẻ mà thôi.