Được xem là vũ khí nguy hiểm nhất đối với những máy bay của quân đội Mỹ trong thời chiến , các mẫu pháo cao xạ dưới đây khiến quân địch khiếp vía mỗi khi lên nòng . Chúng ta cùng tìm hiểu những loại pháo cao xạ nào được quân đội sử dụng trong thời chiến nhé.
1.ZU-23-2
ZU-23-2 “Sergei”, hay ZU-23, là một loại pháo phòng không bán cố định, có chế độ bắn tự động, nòng đôi cỡ nòng 23 mm do Liên Xô nghiên cứu và chế tạo. ZU là viết tắt của Zenitnaya Ustanovka (Tiếng Nga: Зенитная Установка) – nghĩa là pháo phòng không. Định danh của GRAU cho loại pháo này là 2A13.
Từ năm 1965, Liên Xô bắt đầu viện trợ với số lượng lớn pháo ZU-23-2 cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Pháo 23 mm và pháo 37 mm 61-K 37 mm đã trở thành xương sống của lực lượng phòng không tầm thấp và cận trung của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Được cho là nguyên nhân gây nên 83% tổn thất cho Không quân Hoa Kỳ bởi lực lượng phòng không, ZU-23 đã bắn rơi gần 100 máy bay và trực thăng của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt là trên tuyến đường mòn Trường Sơn.
2.61-K 37 mm
61-K (tiếng Nga: 37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года (61-К)) là một loại pháo phòng không có cỡ nòng 37 mm do Liên Xô sản xuất từ năm 1939, được dùng chủ yếu để phòng không mặc dù chúng có thể được dùng như một pháo bộ binh bắn thẳng. Tham chiến lần đầu tiên trong Thế chiến thứ hai, nó phục vụ chủ yếu ở mặt trận Xô-Đức và đã bắn hạ 14.657 máy bay của phe Phát xít . 61-K được cho là ngang hàng với khẩu Bofors 40 mm của Thụy Điển – thường được Anh – Mỹ sử dụng. Sau này nó được dùng làm mẫu súng phát triển thành phiên bản súng phòng không S-60 AZP 57 mm. Ký hiệu của Phương Tây và sau này là của NATO đối với 61-K là M1939.
3.Bofors 40 mm
Bofors 40 mm là loại pháo tự động do nhà thầu quốc phòng Bofors tại Thụy Điển thiết kế. Đây là một trong các loại pháo có trọng lượng trung bình được dùng nhiều nhất chiến tranh thế giới thứ hai hầu hết là bởi các nước thuộc quân Đồng Minh cũng như một số nước phe Trục. Ban đầu loại pháo này dùng để phòng không nhưng sau đó còn chuyển sang dùng vào những vị trí khác như làm pháo hạm phòng không hay tác chiến tầm gần, để cố thủ các vị trí trên đất liền hoặc gắn trên hệ thống kéo để có thể di chuyển thuận tiện cho việc hỗ trợ bộ binh. Hiện tại thì Bofors 40 mm vẫn còn được sử dụng rộng rãi dù tính năng phòng không của nó không còn hữu dụng được như trước nhưng những tính năng khác thì vẫn còn được sử dụng nhiều. Hiện nó có thêm chức năng là gắn trên các chiếc Lockheed AC-130 để tấn công hoặc hỗ trợ các đơn vị mặt đất.
4.S-60 AZP 57 mm
S-60 AZP (tiếng Nga:Автоматическая зенитная пушка С-60, abbrev. АЗП (AZP), tạm dịch là Pháo tự động chống máy bay S-60) là loại pháo cao xạ tự động dùng để phòng không, được Liên Xô phát triển từ những năm 1950. Đây là loại pháo có tầm bắn thấp và gần trung bình. Loại súng này đã được Liên Xô xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới chủ yếu là các nước trong khối xã hội chủ nghĩa cũ và vẫn còn được sử dụng tại nhiều quốc gia hiện nay.
5.8.8 cm Flak 18/36/37/41
Flak 8.8 cm là tên một khẩu pháo phòng không và phòng tăng của Đức trong thế chiến 2.Chúng được sản xuất và sử dụng rộng rãi trong quân đội Đức, nó có thể được thấy ở hầu như tất cả các trận chiến của Đức Quốc xã và Đồng Minh.Sự thành công của mẫu đầu tiên đã dẫn đến việc phát triển một loạt các phiên bản khác của dòng pháo lưỡng dụng này.
6.90 mm M1A1
Chiếc pháo 90 mm là khẩu súng máy phòng không đầu tiên của Hoa Kỳ từ trước khi Chiến tranh thế giới II mở ra vào những năm 1950, khi hầu hết pháo phòng không được thay thế bởi các hệ thống tên lửa có hướng dẫn . Là một khẩu súng xe tăng , nó là vũ khí chính của pháo tự hành chống tăng M36 và M26 Pershing bể, cũng như một số xe tăng thời hậu chiến. Nó đã được triển khai ngắn gọn 1943-1946, như là một vũ khí phòng thủ bờ biển với Hoa Kỳ Quân đội Pháo binh Quân đoàn .