Mỗi cùng đất trên nước ta đều có những bản sắc riêng với những lễ hội đặc sản vùng miền khác nhau . Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem những lễ hội truyền thống đặc sắc ở Bà Rịa – Vũng Tàu nhé.
1.Lễ hội Miếu Bà
Hàng năm, lễ hội Miếu Bà diễn ra 3 ngày từ ngày 16 đến 18 tháng 10 Âm lịch tại Miếu Bà ngũ hành trên đường Hoàng Hoa Thám, TP. Vũng Tàu. Miếu Bà Ngũ Hành nằm bên trái Đình Thắng Tam do các Ngư dân lập nên để thờ 5 bà Nữ thần: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và Thủy Long Thần Nữ, Thiên Y Ana. Nhân dân Vũng Tàu gọi là 7 Bà.
Hội viên Miếu Bà chỉ dành cho nữ giới, banh điều hành cũng do các bà phụ trách. Miếu Bà được xây dựng vào cuối thế kỷ 19. Lễ hội Miếu Bà là những ngày lễ sôi động và linh đình: có rước cờ, lọng, Ngũ sự, rượu hoa quả, chiêng trống, nhạc bát âm: kiệu nghinh Bà, múa Mâm Vàng, mâm Bạc, Bóng Rỗi, Lễ nghinh Thần , múa lân, tế lễ; Thỉnh sắc, Lễ Xây Chầu “trình tuồng, hát bội” và nhiều trò chơi dân gian.
Vốn có tiếng hiển linh nên vào các ngày hội du khách từ khắp các nơi đổ về hành hươn cúng bái rất đông.
2.Lễ hội Nghinh Ông đình Thắng Tam
Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, bà con cư dân ở các làng cá đều tổ chức Lễ hội Nghinh Ông nhưng tiêu biểu nhất là Lễ hội Lăng Ông – đình Thắng Tam. Lễ hội Nghinh Ông đình Thắng Tam (Nghinh ông Nam hải Đại Tướng Quân) được tổ chức trong các ngày 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Đây là dịp để ngư dân cầu mong bình yên khi đi biển, đánh bắt được nhiều tôm cá, cuộc sống được no ấm thịnh vượng, hạnh phúc trường tồn.
Lễ hội nghinh Ông là loại lễ hội nước lớn nhất của ngư dân. Có nhiều tên gọi khác nhau như lễ rước cốt ông, lễ cầu ngư, lễ tế cá “Ông”, lễ cúng “Ông”, lễ nghinh “Ông”, lễ nghinh ông Thủy tướng, nhưng tất cả đều có chung một quan niệm rằng cá “Ông” là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các vùng ven biển.
Lễ hội Nghinh Ông đình Thắng Tam (Bà Rịa Vũng Tàu) được bắt đầu từ sáng sớm ngày 16 với một đoàn người gồm các vị kỳ lão, kỳ hương… lên một chiếc ghe lớn (có trang trí hoa, cờ, bàn thờ và bài vị thuỷ tướng, có đoàn nhạc ngũ âm, chiêng, trống và đội múa lân rộn ràng) đi đến địa điểm đã định rồi dâng hương, rượu. Sau đó, đoàn thuyền về bến rước Ông đến lăng, tiếp đến là các lễ cúng Tiền Hiền, Hậu Hiền, đọc văn tế, sắc phong, học trò dâng trà, hoa, rượu…
Ðến với lễ hội, du khách còn được thưởng thức các tiết mục: Võ thuật, múa lân, hát Bội… cùng với nhịp điệu hoà âm của chiêng, trống trong khói hương nghi ngút.
3.Lễ Hội Dinh Cô
Lễ hội Dinh Cô diễn ra trong 3 ngày từ ngày mồng 10 đến 12 tháng 2 âm lịch tại thị trấn Long Hải huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Dinh Cố là ngôi miếu nhỏ thờ một trinh nữ chết nước, nằm trên mỏm đồi lộng gió ở bãi tắm Long Hải. Dinh Cô được dựng lên bằng lòng tin, sự tín ngưỡng vốn có lâu đời trong nhân dân
Tương truyền, 186 năm trước, xác một người con gái khoảng 16 tuổi dạt vào bãi, tên cô là Lê Thị Hồng Thuỷ, quê ở Phan Rang, theo cha Lê Văn Khương dong ghe bầu xuôi ngược Trung – Nam để đánh bắt cá và trao đổi hàng đan lát bằng tre. Mỗi lần ghe bầu qua vùng biển Long Hải, Cô nhìn cảnh sơn thuỷ hữu tình, thường ao ước được ở lại đây chung sống. Một đêm bão tố, trời chiều lòng Cô, đưa Cô theo sóng biển dạt vào, nằm lại trên bãi cát trắng xoá, nơi mà Cô từng mong ước. Cát đùn lên che chở, sóng vỗ muôn nghìn lời ru cho Cô yên giấc. Dân làng xem Cô là nữ thần thiêng liêng nên lập mộ trên đồi, dựng miếu thờ bên cạnh. Đầu tiên chỉ là một nấm mộ đất, miếu tre lá. Miếu và mộ thay đổi dần theo sự linh ứng ngày càng lan rộng. Một lần (vào khoảng năm 1966), miếu phát hoả, được trùng tu thành ngôi đền khang trang hơn. Đầu năm 1990, Dinh Cô lại được trùng tu bằng kinh phí quyên góp của khách thập phương, trở thành một dinh thự kiên cố như hiện nay.
Từ khi có Dinh Cô để hương khói, ngư dân Long Hải có thêm sức mạnh tinh thần trong lồng ngực để đương đầu với vất vả, gian nan. Thành tích của mình, dân làng thường gán cho Cô, dệt thành nhiều huyền thoại thi vị, chú yếu là chuyện Cô ứng linh ứng giúp người hiền vượt khó khăn. Sự tôn kính dành cho Cô đã trở thành tập quán của người Long Hải, trong đó ẩn chứa khát vọng và niềm tin về cuộc sống thanh bình, thịnh vượng.
Hàng năm, vào ngày lễ hội hàng chục vạn khách thập phương từ miền Tây, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Bình Thuận… lũ lượt kéo về Long Hải dự “Giỗ Cô”, chen chúc nhau trong rừng dương, trên bãi cát, ở những hành lang, khoảng trống để nghỉ qua đêm, dự trọn 3 ngày hội. Có người phải đến trước mấy ngày mới mong kiếm được chỗ trọ. Có gia đình mang theo cả con cái cả đồ dùng nội trợ để ăn nghỉ tại chỗ. Đêm buông màn, rừng dương lao xao, sóng biển rì rào, lấp loáng trăng, lồng lộng gió… cảnh hữu tình khiến người ta quên vất vả mà vui với cuộc hành hương mang tính chất dã ngoại.
Từ rạng sáng ngày 10 tháng 02 âm lịch, người ta đã bắt đầu viếng Cô. Mỗi người thường cầm trong tay một nhành huệ trắng tượng trưng cho sự thanh khiết. Giới trẻ ham vui, các cụ già sùng tín đều chen nhau vượt 187 bậc đờ để dâng hương xin lộc nơi chính điện. Đêm 10 và 11 là đêm hội hoa đăng. ánh đèn sáng rực hoà cùng ánh trăng. Hàng vạn ghe thuyền quay mũi về Dinh chầu Cô, tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng thâu đêm.
Lễ chính được tổ chức từ rạng sáng ngày 12. Từ chính điện, đoàn người chỉnh tề cờ quạt ra bãi, lên thuyền, ra khơi làm lễ “Nghinh Cô”. Lễ “Nghinh Cô” được cử hành long trọng. Vị Chánh bái dẫn đầu, đoàn học trò lễ tiếp bước, có cờ xí, lọng che, hoa đăng rực rỡ. Một chiếc ghe to đặt bày hướng án được xem là ghe dành “Nghinh Cô”. Ghe được hộ tống bởi vài chục chiếc ghe khác. Đoàn ghe nối nhau ra khơi trong tiếng chiêng trống vang trời. Đến Mũi Nhỏ, nơi có ngôi mộ Cô, đoàn người xuống ghe lên viếng mộ, nghênh đón Cô về Dinh. Đặc biệt, trong lễ “Nghinh Cô”, còn duy trì được hình thức diễn xướng “Hát bả trạo”.
Thú vị nhất của khách hữu tình không phải ở nội điện, mà là toàn cảnh bãi Long Hải trong những ngày hội rộn ràng, đứng ở hành lang của chính điện, có cảm giác như đang ở vùng giao thoa giữa biển và trời, giữa đời thực và hư, giữa sóng biển dập dềnh như đang dệt lụa và Dinh Cô trong thế “phục long” đang muốn bay lên. Bởi vậy, đến Dinh Cô trong ngày hội không chỉ có người sùng tín mà còn có những văn sĩ, thi nhân và các đôi trai gái đi tìm rung cảm cho con tim.
4.Lễ hội đình thần Thắng Tam
Đình Thần Thắng Tam là một quần thể kiến trúc gồm có 3 di tích: Đình Thần Thắng Tam, miếu Bà Ngũ Hành, lăng ông Nam Hải. Theo truyền thuyết Đình Thần Thắng Tam thờ chung cả ba người đã có công xây dựng nên ba làng Thắng ở Vũng Tàu. Hằng năm lễ hội đình thần Thắng Tam được tổ chức trong 4 ngày, từ 17 đến ngày 20 tháng 2 âm lịch. Đây là lễ hội cầu an, là thời điểm kết thúc và mở đầu cho một mùa thu hoạch tôm cá.
Phần lễ diễn ra rất cầu kỳ: cúng tế, lễ vật tế thần, dâng hương quỳ lạy, chiêng trống, kèn nhạc… và có rất nhiều điều kiêng kỵ như heo dùng để tế lễ phải có bộ lông cùng màu, người có tang không được tham gia vào việc nghi thức tế lễ.
Phần hội có nhiều trò vui chơi giải trí như múa lân, hát bội…
Lễ hội đình Thần Thắng Tam là một hoạt động văn hoá đặc sắc của ngư dân miền biển Vũng Tàu. Du khách viếng thăm đình Thần Thắng Tam vào dịp lễ hội, hẳn sẽ có chuyến tham quan thú vị và sinh động nhất trong chuyến du lịch Vũng Tàu.
5.Lễ Hội Trùng Cửu
Lễ hội Trùng Cửu tổ chức vào ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch hàng năm, diễn ra tại Nhà Lớn Long Sơn đây là lễ cầu an, là lễ hội cầu cho vạn dân bá tánh được mạnh khoẻ an lành, lễ hội diễn ra vào đêm mồng 8 và ngày 9/9 âm lịch.
Đêm 8/9 gọi là lễ Tiên Thường kỉnh mặn (cúng mặn) chủ yếu là các sản vật do các bá tánh mang vào kỉnh (cúng), và ngày 9/9 gọi là Chánh Giỗ kỉnh chay (cúng chay), lễ hội không tổ chức linh đình như nhiều lễ hội khác chủ yếu là đi dâng hương, nguyện cầu khấn vái, và tưởng nhớ đến công đức của ông Trần.
Tuy nhiên vào những ngày này hàng vạn du khách thập phương hội tụ về đây, đặc biệt là người ở các tỉnh Miền Đông và Miền Tây Nam Bộ, tự xem mình là tín đồ của đạo Ông Trần. Du khách đến đây có thể tìm thấy những điều mới lạ mà người dân nơi đây đã tạo ra theo ý muốn và ước vọng của họ, bổ sung cho kho tàng hiểu biết của mình.