Mỗi vùng đất trên nước ta đều có những bản sắc riêng với những lễ hội đặc sản vùng miền khác nhau . Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem những lễ hội truyền thống đặc sắc ở Nghệ An nhé.
1.Lễ hội Du lịch Cửa Lò
Lễ hội diễn ra vào hai ngày 30/4 và 01/5 hàng năm. Ngành văn hoá du lịch Nghệ An phối hợp cùng các cấp ngành ở Thị xã Cửa Lò tổ chức lễ hội Du lịch Cửa Lò kết hợp với lễ hội sông nước truyền thống trên cơ sở lễ hội đền Vạn Lộc, tạo ra một nét văn hoá độc đáo kết hợp giữa truyền thống và hiện đại mở đầu cho mùa du lịch tại vùng biển Cửa Lò.
Phần lễ nó cũng bao gồm các phần lễ từ lễ khai quang, lễ yết cáo… đến khi xong thì có lễ tạ, tất cả đều diễn ra tại đền Vạn Lộc. Riêng lễ rước kiệu xuất phát từ đền Vạn Lộc rước về Quảng trường Bình Minh – Trung tâm của thị xã Cửa Lò đã thu hút hàng vạn người xem. Cấu trúc của đoàn rước không có gì thay đổi so với cấu trúc đoàn rước ở lễ hội đền Vạn Lộc, nhưng thời gian tiến hành lễ rước từ buổi chiều đi quanh Thị xã qua các trục đường chính đóng trên địa bàn với đoàn rước có đến hàng nghìn người tham gia, với đầy đủ chiêng trống, đội múa lân, kiệu rước được trang trí lộng lẫy, cờ hoa rợp trời, áo quần sặc sỡ,… Đoàn rước thu hút sự tham gia của đông đảo du khách tạo nên một không gian văn hoá đa chiều để lại nhiều ấn tượng trong suốt mùa lễ hội.
Phần hội được tổ chức rất sôi nổi với nhiều hoạt động văn nghệ, thể thao như: Chương trình văn nghệ “ Nối vòng tay biển” do các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp biểu diễn, đốt pháo bông; bóng chuyền bãi biển, kéo co, cầu lông, Tennít, chọi gà, cờ người, trưng bày ảnh các Di tích lịch sử, thắng cảnh của Cửa Lò và Nghệ An trong quá trình chiến đấu và xây dựng quê hương …trước khi diễn ra lễ hội giữa các khách sạn còn tổ chức hội thi văn hoá ẩm thực, thi đầu bếp, lễ tân giỏi… và một hoạt động đặc biệt không thể thiếu trong lễ hội du lịch Cửa Lò hàng năm đó chính là hội đua thuyền truyền thống thu hút hàng vạn người xem và cổ vũ náo nhiệt. Hội đua có sự hội tụ của các tay chèo từ phường, xã có nghề biển, có năm mời cả huyện bạn như Hưng Nguyên, Diễn Châu,tỉnh bạn Thừa Thiên, Huế cũng tham gia. Mỗi thuyền thường có 20 tay chèo và một người cầm chịch thường gõ trống hoặc thổi còi để làm hiệu lệnh. Khu vực đua thuyền là bãi biển phía trước Quảng trường Bình Minh với đường đua dài 1000m, có tàu Hải quân trực bảo vệ và cứu hộ. Cuộc đua không những làm sống lại một nét đẹp văn hoá truyền thống của người dân biển mà còn trở thành một hoạt động văn hoá du lịch đặc sắc trên bãi biển Cửa Lò.’
2.Lễ hội Đền Bạch Mã
Lễ hội Đền Bạch Mã được tổ chức từ ngày 9 đến 10-2 âm lịch hàng năm, tại huyện Thanh Chương. Đền Bạch Mã là 1 trong 4 ngôi đền linh thiêng nhất xứ Nghệ.
Đền Bạch Mã thờ vị anh hùng Phan Đà, người thôn Chí Linh, xã Võ Liệt. Phan Đàn xuất thân trong gia đình làm nghề chài lưới ven sông Lam. Ông sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, tuổi trẻ là người thông minh nhanh nhẹn được bạn bè mến phục. Đất nước gặp họa ngoại xâm, năm 1424 ông gia nhập nghĩa quân Lê Lợi chịu trách nhiệm trong việc móc nối, dò la tin tức và chặn đánh các mũi tiến công của địch, lập nhiều chiến công lớn được Bình Định vương Lê Lợi khen là kỳ đồng (tuổi trẻ có tài kỳ lạ). Trong 1 lần do la tin tức của địch, ông bị phát hiện và bị đánh trọng thương và khi về đến căn cứ thì trút hơi thở cuối cùng.
Theo sử cũ, Phan Đà đã nhiều lần linh ứng cứu giúp nhân dân tai qua nạn khỏi, dịch bệnh, phù trợ các triều đại phong kiến đánh thắng kẻ thù. Để tưởng nhớ vị tướng trẻ tài ba, dũng mãnh, sau thắng lợi kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi đã cho xây dựng đền đài làm nơi thờ cúng và phong sắc Đô Thiên Đại Đế Bạch Mã Thượng Đẳng Phúc Thần và cúng tế hàng năm.
Từ năm 2001 đến nay, lễ hội Đền Bạch mã được khôi phục và được tổ chức long trọng vào 2 ngày 9, 10/ 2 âm lịch. Hoạt động của lễ hội đã thu hút đông đảo nhân dân và du khách hập phương thăm viếng, thưởng ngoạn. Lễ hội gồm 2 phần:
Phần Lễ bao gồm: Lễ Dâng hương tại phần mộ Phan Đà, tại Phủ Ngoại; Lễ rước từ Đền Bạch Mã; Lễ yết cáo; Lễ tế thần; Lễ tạ.
Phần Hội: Tổ chức hoạt động văn nghệ, sinh hoạt thơ, bình thơ; tổ chức thi văn nghệ quần chúng và thi người đẹp. Ngoài ra tổ chức các giải thể thao và trò chơi dân gian như: bóng chuyền thanh niên khối THPT, vật cù, cờ thẻ, kéo co nữ, chọi gà…
3.Lễ hội Hang Bua
Sau rằm tháng giêng, hàng nghìn người dân lại đổ về trẩy hội Hang Bua (thuộc bản Na Nhàng, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An). Lễ hội Hang Bua bắt nguồn từ tục thờ mẹ nước của người Thái cổ. Ngày nay, nó trở thành nơi giao lưu văn hóa với nhiều loại hình nghệ thuật dân gian phong phú. Lễ hội Hang Bua được tổ chức từ ngày 17 đến ngày 19 tháng giêng, luôn thu hút được số lượng lớn người tham gia.
Lễ hội Hang Bua chính là câu chuyện tâm linh gắn liền với đời sống sinh hoạt của đồng bào Thái cổ. Cách Hang Bua 500 m có một vùng đất cổ gọi là Pò Nậm (nước). Từ khe đá đến núi cao, một dòng nước mát lạnh từ nguồn chảy xuống hai giếng nguyên sinh trong vùng. Từ một vùng đất hoang người Thái cổ đã lập nên bản Búa (Bản Bua, nay là bản Na Nhàng) và quần cư tại đây. Để nhớ ơn “mẹ nước” từ xa xưa, người Thái cổ đã chọn một vùng đất (đẹp đẽ, cao ráo, thoáng đãng để thờ cúng. Sau vụ thu hoạch dân bản lại quây quần bên Hang Bua để thờ cúng thần nước và nhảy múa ăn mừng. Từ năm 1997, Hang Bua được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích thắng cảnh tầm cỡ quốc gia, Sở Văn hóa – Thông tin Nghệ An và huyện Quỳ Hợp đã phối hợp tổ chức để lễ hội Hang Bua thực sự mang đậm bản sắc dân tộc.
Lễ hội Hang Búa thiên về phần hội, phần lễ đơn giản gồm: Diễn văn khai mạc lễ hội và lễ cũng thần linh tại hang. Nhân dân khi về dự lễ hội không mang theo hành trang của người hành hương mà luôn mong mỏi được trao đổi giao lưu văn hóa, được thưởng thức cái đẹp những truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện qua nhiều hình thức sinh động khác nhau, đặc biệt qua các loại hình nghệ thuật dân gian cũng như hiện đại. Dàn cồng chiêng của các chàng trai, cô gái Thái vang lên rộn rã, những trò diễn, những điệu múa rộn ràng, tiếng réo rắt của sáo, tiêu, khèn bè và bay bổng những làn điệu dân ca nhuôn, xuối, lăm, khắp… Cả núi rừng đều như bước vào hội xuân.
Ở Hang Bua hàng năm vẫn diễn ra các trò chơi dân gian độc đáo như bắn nỏ, đẩy sào, ném còn… Đặc biệt “hội thi người đẹp Hang Bua” thu hút được nhiều người tới xem. Đến Hang Bua vào mùa lễ hội, ta còn được thưởng thức các món ăn đặc sản của người Thái như: thịt thú rừng nướng, chẻo môn, cơm lam…
Nghệ An có nhiều lễ hội như lễ hội đền Cồn, lễ hội sông nước Cửa Lò, lễ hội uống nước nhớ nguồn…, nhưng lễ hội Hang Bua vẫn thu hút được nhiều người hơn cả. Đó là những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân gian cần được gìn giữ và phát triển.
4.Hội đền Quả Sơn
Lễ hội đền Quả Sơn là lễ hội vùng lớn vào loại bậc nhất ở Nghệ An. Lễ hội được diễn ra trong 3 ngày 19, 20 và 21 tháng giêng âm lịch hàng năm để tưởng nhớ tới công đức của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – vị danh tướng, danh thần của vương triều Lý đã có công lớn trong việc bảo quốc an dân, củng cố nền độc lập, thông nhất đất nước ở thế ký XI .
Lễ hội gồm 2 phần lễ và hội.
Phần Lễ: Ngày 19 làm lễ yết cáo. Ngày 20 là chính hội, buổi sáng làm lễ rước thần từ đền quả đến đền Bà Bụt, buổi chiều có lễ tạ ơn Bà Bụt. Ngày 21, buổi sáng làm lễ rước xuôi từ chùa bà Bụt về đền, buổi chiều có lễ yên vị.
Phần Hội: Diễn ra từ sáng ngày 20 đến chiều ngày 21 tháng giêng âm lịch. Các trò chơi dân gian: Đáng đu tiên, chọi gà, cờ thẻ, cờ người, đấu vật, múa võ, đặc sắc nhất là đua thuyền bơi chải xuôi ngược dòng Lam, hát chầu văn, ca trù, diễn các tích chèo, tuồng cổ…
Ngày nay, ngoài các trò chơi dân gian và nghệ thuật dân tộc, còn tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục , thể thao như : Biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, cắm trại, triển lãm, trưng bày bán các loại ấn phẩm văn hoá, tổ chức thi đấu bóng đá, bóng chuyền, đi tham quan các di tích danh thắng trong vùng.
Đây là lễ hội dân gian đặc sắc, hấp dẫn và mang nhiều ý nghĩa nhân văn, thể hiện tinh thần đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, làm sống động tinh thần thượng võ cùng những thuần phong mỹ tục của nền văn hoá dân gian.
5.Lễ hội đền Cờn
Đền Cờn thuộc địa phận xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Hội đền trước đây thường được tổ chức 15 tháng chạp đến hết tháng giêng âm lịch hàng năm, để tưởng nhớ đức Thánh Mẫu, tứ vị Thánh Nương – nữ thần bảo vệ và phù hộ cho dân làm ăn thịnh vượng và vượt qua hiểm nguy, đã nhiều lần giúp đỡ cho đội quân nhà Trần, nhà Lê vượt biển bình an. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, lễ hội đền Cờn không còn được duy trì, mãi đến năm 1998 mới được khôi phục lại, đây là một trong những lễ hội tuyền thống văn hoá lớn của xứ Nghệ. Ngày nay lễ hội được tổ chức vào ngày 21 tháng giêng âm lịch hàng năm.
Lễ hội đền Cờn chính thức được tổ chức vào ngày 21 tháng giêng, nhưng bắt đầu từ mồng 1 tết Nguyên đán hàng năm, lễ hội mở màn bằng những đoàn thuyền du xuân trang trí cờ hoa cùng với tiếng chiêng trống ầm vang. Đến ngày hội chính thức sẽ diến ra một trận thuỷ chiến giả có quân xanh, quân đỏ giao chiến trên một giải núi non hiểm trở kéo dài 10km từ làng ói về đền Cờn. Những trai đinh khoẻ mạnh, đóng khố, đầu chít khăn thủ rìu khác nhau để phân biệt là người của đội nào. Khi lâm trận họ phải mang theo vũ khí là đòn khiêng, dây chạc… trận giả này cứ 3 năm một lần gắn liền với truyền thuyết dựng đền. Đây chính là nét riêng nghi lễ và tín ngưỡng văn hoá đền Cờn.
Trong trò chơi trận giả còn có trò chơi “ Chạy ói “. Đám rước chạy ói gồm có 4 kiệu, 4 ngai, 4 tàn, 4 quạt khởi hành từ đêm. Sáng ra lại đi tiếp 4 kiệu, 2 voi, 2 ngựa, cùng đi theo đoàn rước có đoàn cờ, nhạc Bát âm, đoàn cầm đồ Bát bửu nghi trượng, đội nữ quan, đội nữ tướng. Chỉ huy đám rước là người đứng đầu 4 giáp và 1 vị thủ chỉ. Ngoài đám rước, trên bọ có đoàn thuyền 16 chiếc xếp thành chữ Nhất xuất phát từ bến đền đi theo sông ra biển men theo bờ tiến về đền Quy Lĩnh ở Quỳnh Lương. Hai đoàn rước liên lạc với nhau để khi qua Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng và cùng lúc tới Quỳnh Lương. Khi đám rước xuống Phú Lương, đến Quy Lĩnh, dân ở hai làng Phú Lương – Phương Cần gây xô xát và cùng hô “ Xô bề cá ông về với bà “. Sau đó làng Phú Lương làm lễ khuất lưu, làng Phương Cần làm lễ Phụng Nghinh. Xong lễ, đoàn rước khứ hồi lại đền Cờn. Lễ vật hiến tế lớn: 5 trâu, 5 lợn, 5 bò, 5 dê, gà, xôi, rượu vào mồng 6 tháng giêng. Sáng ngày mồng 7 tế bánh. Toàn bộ dân đình Phương Cần góp 1 đinh 2 chiếc bánh chưng, từ ngày 17 đến ngày 22 đại tế tam sinh như ngày mồng 6.
Người dân ở đây tin rằng năm nào Giáp Tam (đội 3) thắng trò chơi chạy ói thì năm đó biển lặng sóng yên, sản xuất mùa màng tốt tươi, thuyền chài kéo được nhiều tôm cá, đời sống no đủ.
Trong quá trình tổ chức lễ hội tại đền, các khu vực ngoài đền, sân đình, chùa, đền, bến sông tổ chức các trò chơi dân gian như: đua thuyền, đấu vật, kéo co, đánh cờ người,cờ thẻ, bài điểm, chơi đu, chọi gà, biểu diễn tuồng, hội hát ca trù…
Sau nghi lễ và các trò chơi hội là lễ cúng tế mang đậm nét dân gian, thể hiện tín ngưỡng của người dân địa phương như: lễ cầu yên, cầu tài, cầu lộc, lễ tạ ơn, bốc xăm, xem quẻ…
Lễ hội đền Cờn được xem là lễ hội truyền thống ở xứ Nghệ, nó đã có rất lâu đời từ thời Trần đến thời Nguyễn đều tổ chức lễ hội này, nó không chỉ còn là lễ hội của xã mà trở thành lễ hội của vùng, của tỉnh và cả nước.
6.Hội Vật Cù ở Thanh Chương
Tương truyền hội vật cù ở đây có từ khoảng đầu thế kỷ 15. Bắt nguồn từ việc chọn những lực sĩ khỏe mạnh, nhanh nhẹn để sung vào đội quân của tướng Phan Đàn – một võ tướng của vua Lê Thái Tổ, coi việc quân ở vùng này, dần dà hội vật cù trở thành một sinh hoạt mang tính hội lễ đậm nét dân gian được mọi người ưa thích và phổ biến, đi vào đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào vùng Thanh Chương, Đô Lương, Nam Đàn, mà sôi nổi, náo nhiệt hơn cả là ở những vùng dọc hai bờ sông Găng (một nhánh của sông Lam) – Thanh Chương, nơi được xem là xuất xứ của trò chơi này.Người ta tổ chức thi vật cù giữa các làng xã, thời gian mỗi cuộc chơi không qui định cụ thể, số người tham gia mỗi bên cũng không hạn chế. Có khi hội vật cù lên đến đỉnh điểm, đàn ông trai tráng trong làng đều hăng hái vào cuộc không kể tuổi tác, lúc ấy thường là vào dịp Tết Nguyên đán
Trước ngày vào hội, người ta đã lựa tìm những gốc chuối, đặc biệt thích hợp là gốc chuối hột loại lớn, đào lên lấy củ. Dùng dao sắc đẽo củ chuối thành hình tròn có đường kính cữ 30cm, trọng lượng 5 – 7kg là có quả cù đảm bảo yêu cầu. Quả cù phải sạch nhựa và có độ dẻo cần thiết, bởi nó thường xuyên bị giành giật, quăng ném mạnh dễ vỡ trong khi chơi. Vì vậy, quả cù sau khi lược đẽo xong, được luộc qua nước sôi, vớt ra phơi nắng khá kỹ. Lúc này quả cù có màu sẫm và rất dẻo, không bị nứt vỡ khi chơi. Sân chơi cù thường là những sân cát bên bờ sông hay trong làng, chiều dài độ 50m, ngang độ 25m. Có ba hình thức chơi củ: cù gôn, cù đẩy và củ nước. Cả ba lối chơi này đều có chung hình thức tính điểm và bố trí giống nhau, ở hai đầu sân của mỗi bên là hai chiếc sọt đan bằng nan tre, nứa cao 1,5m, đường kính 50cm (cù gôn, củ nước), hay đào một hố sâu rộng 50 x 50cm (cù đẩy). Bên nào giành và đưa được cù vào sọt (hay vào hố) của đối phương được một điềm. Để đưa được quả cù vào đích cũng không phải dễ dàng gì bởi phải giành giật, tranh cướp quyết liệt, bên nào cũng tìm mọi cách nhằm cản phá đối phương đưa cù vào sọt (hố) của mình. Hội vật cù vì thế rất sôi nổi, hào hứng, cuốn hút mọi người dự khán.
Ở cù gôn, khi vào cuộc hai bên dàn đội hình ngay giữa sân, quả cù đặt dưới đất; có hiệu lệnh của người cầm trịch (trọng tài) , hai bên bắt đầu vào cuộc tranh cướp, giành giật chuyền nhau . . . Ở cù đẩy, quả cù được chôn sâu dưới cát giữa sân, khi có hiệu lệnh hai bên tranh nhau đào moi lấy cù bằng tay không. Lúc một trong hai bên đã có cù, các cầu thủ của hai đội đứng sau đội trưởng – người cầm cù – và bắt đầu dùng sức đẩy thông qua quả cù . Bên nào qua lần đẩy này tỏ ra mạnh hơn làm cho bên đối phương phải lùi sẽ giành được quyền ôm cù, ngay sau đó rất nhanh và khéo léo chạy chuyền cù cho nhau để đưa cù tới đích.
Đặc biệt vui và hào hứng lối chơi cù nước. Sân chơi cù nước là một bãi cát ngập nước sâu độ 30 – 40cm ven sông, quả cù được chôn sâu dưới cát ngập nước; khai cuộc cả hai đội dầm mình trong nước tranh nhau moi quả cù sau đó vừa chạy vừa lội với quả cù to nặng, vừa phải luồn lách qua đối phương đang tìm mọi cách đề giành giật quả cù. Người tham gia vật cù đều cởi trần đóng khố. Đề phân biệt người của hai đội, ban tổ chức qui định rnàu sắc của khố hay dải khăn màu vấn trên đầu. Tuy từ xưa không có một điều luật cụ thể, nhưng trong hội vật cù không hề có lối chơi thô bạo, ác ý. Rất quyết liệt nhưng cũng rất trong sáng. Kết thúc cuộc chơi, đội nào có số lần đưa cù vào đích của đối phương nhiều hơn là đội thắng. Giải thướng chỉ mang tính tượng trưng, danh dự. Ở hội cù, người các làng xem và cổ vũ rất đông, hò reo, đánh trống chiêng cuồng nhiệt cổ vũ cho đội nhà và tán thưởng những đường chạy cù ngoạn mục… Ai đã một lần được xem hôi vật cù ở Thanh Chương hẳn sẽ vô cùng thích thú.
7.Lễ hội đền Cuông
Nối tiếp lễ hội Cổ Loa diễn ra tại Đông Anh – Hà Nội, lễ hội Đền Cuông được tổ chức long trọng từ ngày 12 đến ngày 16/2 âm lịch, trong đó ngày chính lễ là 14 và 15/2 tại xã Diễn An, huyện Diễn Châu,tỉnh Nghệ An. Theo truyền thuyết,lễ hội đền Cuông (đền Công) không chỉ là dịp cầu phúc cầu tài mà còn là dịp để lòng người ghi dấu đoạn kết của câu chuyện Loa Thành: An Dương Vương đem công chúa Mỵ Châu chạy trốn kẻ thù, tới Diễn Châu thì dừng lại. Lễ hội Đền Cuông chính thức ra đời từ năm 1993, còn trước đó nó chỉ tồn tại dưới hình thức lễ tế thần.
Phần lễ của lễ hội đền Cuông bao gồm năm lễ: lễ khai quang, lễ cáo trung thiên, lễ yết, lễ đại và lễ tạ. Ngoài ra, còn có thêm lễ túc trực. Khi tham gia lễ, các vị trong ban hành lễ sẽ mặc lễ phục theo quy định.
Lễ khai quang là lễ diễn ra đầu tiên trong lễ hội đền Cuông. Lễ được tổ chức vào ngày 12 tháng 2 âm lịch hàng năm. Nội dung của phần lễ là dâng hương xin các vị về trời để nhân dân làm công tác don dẹp đền chuẩn bị cho lễ hội sắp tới.
Lễ cáo trung thiên được tổ chức sau khi kết thúc công việc dọn dẹp. Lễ diễn ra khá đơn giản và nhanh chóng. Nội dung của lễ là báo với các vị công việc dọn dẹp đền đã hoàn thành, mời các vị về đền tham dự lễ hội và lắng nghe những nguyện vọng, mong ước và chứng giám cho lòng thành kính của nhân dân.
Lễ yết là lễ thứ ba trong phần lễ và cũng là lễ có tính chất mở đầu lễ hội đền Cuông. Lễ được diễn ra vào chiều tối ngày 14 tháng 2 âm lịch.Theo đúng thông lệ, lễ phải diễn ra vào tối khuya khoảng 22 giờ trở đi nhưng do yêu cầu hành lễ của bà con nên lễ được tiến hành sớm hơn, vào khoảng 17h chiều ngày 14 tháng 2 âm lịch. Lễ yết gồm 6 bước được tiến hành qua 35 lần xướng trong đó chỉ có một lần xướng ở mỗi bước. Nội dung của lễ yết là xin phép các vị cho mở lễ và mời các ngài về dự lễ.
Lễ rước kiệu bao gồm ba phần: Lễ rước vua và công chúa vi hành, lễ rước kiệu từ nhà thờ họ Cao và đình Xuân Ái về đền Cuông, lễ rước kiệu về nhà thờ họ Cao( nơi thờ tướng quân Cao Lỗ, một vị tướng tài ba trong thời đại An Dương Vương có công chế tạo ra nỏ thần). Lễ rước vua và công chúa vi hành là bước đầu tiên trong quá trình diễn ra lễ rước kiệu. Lễ diễn ra khoảng vào 11 giờ tối ngày 14 tháng 2 âm lịch. Việc đầu tiên trong quá trình diễn ra lễ là phải làm lễ xin vua và công chúa cho phép nhân dân được mang linh vị lên kiệu để đưa về đình Xuân Ái phục vụ cho lễ rước kiệu ngày mai. Sau đó rước vua và công chúa về đình Xuân Ái cách đền khoảng 2km. Tương truyền, đình Xuân Aí được nhân dân xây dựng để tưởng nhớ công ơn của vua An Dương Vương và đình được xây dựng trước đền vì theo quan niệm dân gian đền chỉ là nơi ngài ngự còn đình mới là nơi ngài về với dân. Cũng do quan niệm đó nên khi diễn ra lễ hội phải rước ngài từ đình ra đền để làm lễ, cho nhân dân cầu nguyện.
Lễ rước kiệu từ nhà thờ họ Cao và đình Xuân Ái về đền Cuông bắt đàu từ sáng sớm ngày 15/2. Đi đầu đám rước là cờ lễ của cả đình và nhà thờ, ban âm nhạc, tiếp đến là kiệu của vua, sau đó là kiệu của công chúa Mỵ Châu, và tiếp theo nữa là kiệu của tướng Cao Lỗ. Khi kiệu về đến đền, cửa chính của tam quan sẽ được mở ra để cho đoàn rước kiệu đi vào. Kiệu được đặt ở sân trước bái đường để chuẩn bị làm lễ.
Đại lễ tại đền là lễ chính trong phần lễ của lễ hội đền Cuông, đây là lễ lớn nhất, kéo dài nhất và đông người tham gia nhất. Lễ đại diễn ra vào sáng ngày 15 tháng 2 âm lịch. Buổi lễ là sự phối hợp nhịp nhàng giữa ông đông xướng, tây xướng, những nhạc công, và những người hành lễ. Kết thúc phần hành lễ của ban hành lễ, cũng như trong lễ yết là phần dâng hương. Đầu tiên, đại diện của các ban ngành mỗi người cầm một que hương lên thắp. Sau đó cửa tam quan được mở để cho nhân dân lên dâng hương.Sau khi làm xong lễ, kiệu của vua và công chúa được vào tả vu.
Lễ tất diễn ra vào 16 tháng 2 âm lịch.Lễ tất được tiến hành rất đơn giản. Nội dung của lễ là cảm ơn các vị đã về dự lễ. Sau lễ kết thúc, tất cả lễ vật trên bàn thờ được hạ xuống để mọi người hưởng lộc vua ban. Sau lễ tất, phần lễ của lễ hội coi như kết thúc nhưng phần hội còn kéo dài cho đền hết ngày 16 mới kết thúc
Phần hội là phần đặc sắc nhất của lễ hội đền Cuông. Hội được diễn ra từ ngày 14 cho đến hết ngày 16 tháng hai âm lịch. Hội bao gồm rất nhiều trò chơi dân gian, nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, nhiều hoạt động giải trí…. Không gian của hội chính là khoảng đất trống đối diện đền. Hội thu hút không chỉ trẻ em, thanh niên mà tất cả nhân dân ở mọi lứa tuổi
Lễ hội đền Cuông năm nào cũng có trò chơi chọi gà. Đến lễ hội, mọi người sẽ được chiêm ngưỡng những con gà nòi đẹp nhất, khỏe nhất mà nhân dân khắp nơi đưa về. Hết lễ hội, con gà thắng cuộc cuối cùng sẽ được vinh danh và chủ nhân của nó sẽ được thưởng.
Không chỉ thế, hầu như năm nào trong lễ hội đền Cuông cũng có chơi cờ người. Các cuộc thi không phải là giữa những xã với nhau như những trò chơi thể thao khác mà là cuộc thi giữa một số huyện trong tỉnh có đoàn về tham gia trò chơi này trong lễ hội.
Bên cạnh những trò chơi truyền thống lễ hội đền Cuông còn sôi nổi cùng phong trào thể thao như: bóng đã, bóng chuyền, kéo co…Các hoạt động văn nghệ biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, thi nét đẹp đền Cuông, hát chầu văn …
Lễ hội đền Cuông thực sự trở thành một hoạt động văn hóa tâm linh không thể thiếu được của người dân Diễn Châu nói riêng và du khách thập phương nói chung, là sự tri ân của thế hệ hôm nay với những người có công với đất nước, là đạo lý uống nước nhớ nguồn ngàn đời của dân tộc ta, để các thế hệ nối tiếp nhau phát huy truyền thống hào hùng của dân tộc.