Mỗi vùng đất trên nước ta đều có những bản sắc riêng với những lễ hội đặc sản vùng miền khác nhau . Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem những lễ hội truyền thống đặc sắc ở Yên Bái nhé.
1.Lễ hội múa Mỡi dân tộc Mường
Lễ hội múa Mỡi dân tộc Mường được tổ chức vào dịp đầu năm mới (mùng 3 tháng Chạp), tại thôn Ao Luông II, xã Sơn A, huyện Văn Chấn. Lễ hội là để con cháu cảm ơn tổ tiên một năm qua đã phù hộ, che chở cho con cháu làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, thóc lúa đầy bồ, con cháu mạnh khoẻ…
Theo một số người già trong làng nơi đây kể lại, lễ hội múa Mỡi đã có từ rất lâu rồi, không ai nhớ rõ là từ khi nào. Chỉ biết rằng hàng năm, cứ vào dịp đầu năm mới (mùng 3 tháng Chạp), mọi người tụ tập nhau lại để múa mời tổ tiên xuống trần gian vui chơi, nhảy múa cùng con cháu.
Điệu múa này được diễn ra tại nhà ông Mo lớn, Mo chủ (cầm thần) là ông Mo có uy tín nhất trong làng. Để chuận bị cho sự kiện này, trước nhà ông Mo sẽ dựng một cây nêu được trang trí rất nhiều họa tiết mang ý nghĩa tâm linh.
Lễ vật trong lễ hội múa Mỡi gồm có: Mâm lễ cúng (tiếng dân tộc Mường gọi là “Pán Cạo”) gồm có các lễ vật: 1 đầu lợn, bánh chay (pèng chay), bánh trưng (pèng chưng), bánh ống (pẻng ống), cơm, xôi, rau chay, măng, lá đu đủ, 1 nải chuối, rượu. Và một lễ vật có ý nghĩa rất quan trọng trong lễ hội này là cây bông, tiếng Mường gọi là “Cần Boồng”.
Bắt đầu vào lễ, thầy Mo mặc quần áo truyền thống, đầu quấn khăn Mơi, tay cầm quạt, ngồi giữa một chiếc chiếu trải ở khu vực trung tâm. Thầy Mo thay mặt tất cả mọi người tham gia trong lễ hội đứng trước mâm cúng khấn, lời khấn đại ý “Hôm nay ngày lành tháng tốt, bản mường tổ chức lễ hội múa Mơi, cảm ơn thần tiên, tổ tiên trong năm qua đã phù hộ cho con cháu một năm làm ăn gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi…”. Điệu múa này của thầy mo với đại ý là thần tiên đã nhập vào thầy để vui chơi cùng con cháu. Khi đã nhập vào, thầy mo sẽ múa điệu quay tròn lắc lư đầu, chân rung mạnh cảm giác như sắp bật khỏi mặt đất, thầy vừa múa nhập đồng miệng vừa lẩm nhẩm điệu hát.
Sau khi thầy mo nhập đồng xong mọi người bắt đầu vào màn múa đầu tiên theo nhịp gõ trống, chiêng, điệu múa trầu (hay còn gọi là múa nàng tiên). Điệu múa này là thầy mo mời các nàng tiên trên trời xuống để dự lễ hội múa vui cùng bà con dân bản. Tham gia điệu múa này chủ yếu là sáu nghệ nhân mặc trang phục truyền thống, khăn Mơi vắt qua vai, khi vào điệu múa khăn Mỡi sẽ được chuyển từ vai xuống tay thành đạo cụ múa.
Đạo cụ dùng trong điệu múa là những thanh nứa dài, gõ lên một tấm gỗ theo nhịp 3-4 kết hợp với âm thanh của trống và chiêng. Ở điệu này, người múa phải nhìn nhau múa đều theo nhạc. Điệu múa này diễn ra trong khoảng 15- 20 phút.
Điều đặc biệt là tất cả mọi người có thể cùng tham gia múa với những động tác đơn giản, không phức tạp. Chân bước theo nhịp 2-4, chân vắt sang phải thì tay cầm khăn mơi vung sang trái và ngược lại. Mọi người cùng say sưa múa, điệu múa cứ lặp đi lặp lại, từ vị trí ban đầu di chuyển theo vòng tròn rồi lại xoay lại.
Tiếp theo là điệu múa “Mùa Cuổi” (múa Cuội) hay Thần tiên xuống chơi. Đây là màn múa cao trào nhất, điệu múa mang ý nghĩa rằng thần tiên ở trên trời đã nghe thấy lời cúng khấn của con cháu nên đã nhập đồng xuống trần gian cùng vui chơi. Thầy mo lúc này vừa nhảy múa cùng mọi người vừa ra hiệu cho tất cả cùng nhau vui chơi, cùng tham gia vào màn múa. Trong điệu múa này, có một phần rất đặc biệt đó là phần “phán bông” của thầy Mo, các cô gái rất náo nức đón đợi phần này bởi qua lời phán của Thầy Mo một trong số các cô gái xinh đẹp, đảm đang, khéo léo tham gia và công việc chuẩn bị cây bông sẽ được thầy chọn và phán là người khéo tay nhất đã làm ra bông hoa đẹp nhất.
Sau một hồi múa vui, thầy Mo sẽ ra hiệu cho mọi người chuyển sang điệu múa mô tả những trò chơi thể thao, các trò chơi ở đây chủ yếu là ném còn, đánh đu, kéo co… Xong nhịp múa này thì Cuội nhập vào thầy, lúc này thầy Mo đứng bật dậy múa các động tác lạ khác hẳn với các động tác đã múa trước, có sự trêu ghẹo các cô gái xinh của bản và bị các cô gái đuổi về trời. Kết thúc, tất cả mọi người quây quần bên nhau, chúc nhau chén rượu và hẹn năm sau thần tiên sẽ quay trở lại vui cùng bản Mường.
Có thể nói, Múa Mỡi là lễ hội truyền thống mang ý nghĩa rất lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc Mường nơi đây. Những khát vọng và ước mơ về cuộc sống tự do vươn tới ấm no, hạnh phúc và ca ngợi tình yêu đôi lứa đã được người Mường gửi gắm qua lễ hội.
2.Người Dao đỏ làm lễ Cấp sắc
Cấp sắc là một nghi lễ quan trọng không thể thiếu của người Dao đỏ để công nhận sự trưởng thành của một người đàn ông, một người phụ nữ.
Cùng với nhiều người dân ở tỉnh Yên Bái chào đón năm mới, đồng bào Dao đỏ xã Phúc Lợi, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tổ chức nghi lễ cấp sắc.
Trong lễ này, sau bước báo cáo tổ tiên của các thầy cúng, tiếng trống chiêng của lễ cấp sắc đã vang lên để báo hiệu buổi lễ cấp sắc của gia đình đã bắt đầu. Các thầy cúng và các cặp vợ chồng là con cái trong gia đình chào hỏi nhau trước bàn thờ tổ tiên để bắt đầu các thủ tục của lễ.
Theo truyền thống của người Dao đỏ, một lễ cấp sắc có nhiều bậc: 3đèn, 7 đèn, 12 đèn. Với lễ cấp sắc được tổ chức theo bậc 7 đèn trong thời gian 3 ngày, 3 đêm. Các nghi lễ chính trong lễ cấp sắc này gồm lễ trình diện, gia chủ mổ lợn để tế lễ tổ tiên. Các thầy cúng đánh trống mời tổ tiên về dự, báo cáo tổ tiên biết lý do của buổi lễ.
Sau một hồi các thầy khấn làm thủ tục, xin âm dương, thần linh, người được cấp sắc sẽ chính thức được đặt tên âm, được công nhận là người đã trường thành, được cả cộng đồng công nhận đủ uy tín để đảm đương những công việc lớn của gia đình và bản làng. Trong ngày đầu tiên của lễ cấp sắc, các cặp con cái trong gia đình được ăn một bữa cơm có đầy đủ rượu thịt, sau đó phải tắm rửa sạch sẽ để được mặc lễ phục mới của dân tộc và thực hiện ăn cơm chay đến hết lễ mới thôi.
Cấp sắc là một nghi lễ quan trọng không thể thiếu của người Dao đỏ để công nhận sự trưởng thành của một người đàn ông, một người phụ nữ. Đây cũng là một nghi lễ để cầu cuộc sống may mắn bình an, răn dạy con em đồng bào Dao đỏ phải biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, người thân.
Ông Triệu Tiến Kim, người thầy cả trong lễ cấp sắc tại gia đình ông Triệu Tiến Trường (xã Phúc Lợi, Lục Yên) cho biết: “Trong làng, nhà nhà phải gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc. Cấp sắc 7 đèn còn để cầu phúc, cầu lộc, cầu tài; trồng cây ngô, lúa, khoai, sắn, nuôi con lợn, con gà bình an. Hàng năm, quỷ thần không đền quấy rối vì có tiếng có tăm rồi, không dám đền quấy rối nhà mình nữa”./.
3.Lễ hội “Bung Lổ” của người Dao Họ
Lễ hội “Bung Lổ”, hay còn gọi lễ hội Cầu mưa truyền thống của người Dao Họ (Dao quần trắng) xã Đông An, huyện Văn Yên mang đậm giá trị văn hóa truyền thống độc đáo, làm nên bản sắc văn hóa đặc sắc của người Dao Họ.
Dân tộc Dao từ xa xưa sống chủ yếu dựa vào ruộng, nương, tự cung tự cấp với phương thức canh tác cổ truyền dựa vào tự nhiên là chính. Trước đây, thời tiết hạn hán kéo dài, mùa màng thất thu từ 3 đến 5 năm, người Dao Họ trong xã lại họp nhau lại tổ chức Lễ hội “Bung Lổ”. Họ cầu trời đất, Ngọc Hoàng, Thiên Lôi và các đấng thần linh, tổ tiên, ông bà phù hộ cho dân làng một năm mới mưa thuận, gió hòa, làm ăn thuận lợi, mùa màng bội thu, thóc lợn đầy nhà, gà lợn đầy sân. Lễ hội Cầu mưa – “Bung Lổ” có qui mô toàn xã, do đó việc tổ chức được bàn bạc, thống nhất trong toàn xã.
Sau khi thống nhất tổ chức lễ hội, dân làng quyết định chọn và tổ chức tại một gia đình trong xã. Gia đình được chọn phải là nhà có uy tín trong làng và trong nhà cũng có người làm “thầy đạo” hoặc “thầy múa”. Chủ nhà phải là người am hiểu về lễ hội và có kinh nghiệm trong tổ chức lễ hội. Thông thường lễ hội “Bung Lổ” được tổ chức khoảng từ ngày 5 đến 15 tháng 5 Âm lịch. Khác với các lễ hội khác, lễ hội này, thầy múa giữ vai trò chủ đạo trong tiến trình của lễ hội.
Trong lễ hội, các lễ vật và dụng cụ liên quan đến nghi lễ như: lợn, gà, rượu, gạo, hương, giấy bản màu… được chủ nhà lo liệu. Lễ vật cần thiết trên bàn thờ chỉ là mâm cúng đơn giản, các lễ vật chỉ mang tính tượng trưng, ý tưởng. Ngoài ra còn sử dụng thêm một số dụng cụ khác như: lán cúng “Màn giù”, mâm cúng, mặt nạ, cờ đuôi rồng, thanh la, đao, kiếm gỗ…
Vào khoảng giờ Thìn ngày thứ nhất của lễ “Bung Lổ”, thầy Tam nguyên cùng đồ đệ đánh chiêng, gõ trống múa nghi lễ tiến vào ngõ chủ nhà làm lễ. Đi đầu là một thầy Tam nguyên mặc áo đỏ, tay cầm đao gỗ; một thầy phụ mặc áo vàng, tay cầm kiếm gỗ vừa đi vừa múa theo điệu mở đường.
Tiếp theo là hai người múa “vạn pù” cầm dải vải có tua múa theo điệu “trừ tà”. Người đeo mặt nạ là ông “sán cô” tượng trưng cho người khai thiên lập địa, múa các điệu mang tính chất vui hoặc mang tính phồn thực làm động tác giao lưu với đất trời. Đi giữa là một thầy cầm sách và kiếm phép, cái lanh, “lệnh bài”, theo sau là một vài học trò. Đến gần khu vực lán cúng, thầy làm lễ xua đuổi tà ma lấy lán làm lễ cầu mưa. Tiếp theo là màn cúng “Thào Phanh” (cúng, múa mời tổ tiên). Màn cúng này được tiến hành trong nhà, ở gian chính giữa có đặt bàn thờ.
Mâm cúng đơn giản, chỉ có mấy thẻ hương, nước chè, chén. Toàn bộ sớ được thầy viết trong 6 ngày sẽ được để lên bàn thờ trong suốt quá trình diễn ra nghi lễ. Nội dung của màn cúng là báo với thần công, thổ địa, tam thanh, tam nguyên hôm nay gia chủ tiến hành lễ hội cầu mưa. Mỗi đoạn cúng khoảng 2 tiếng rồi chuyển sang múa.
Đến cuối màn cúng là giai đoạn thăng hoa và hóa phép của thầy cúng, biến hóa ngọn nến trong mâm thành những viên ngọc có các màu xanh, đỏ, trắng khác nhau và tặng gia chủ. Những viên ngọc này chỉ là hình ảnh tượng trưng, được những người tham gia trong lễ hội tưởng tượng ra. Gia đình nào tổ chức lễ hội cầu mưa mà thầy hóa phép thành ngọc và được tặng viên ngọc đó thì năm đó không chỉ riêng gia đình này mà cả dân làng được phù hộ làm ăn phát đạt, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu.
Màn cúng thứ 3 là cúng vào lán (Pẹa Tàn). Bắt đầu vào màn cúng, cả thầy đạo và thầy múa cùng làm thủ tục cúng tế. Nội dung bài cúng vẫn là báo cáo và mời thần linh, tổ tiên về dự lễ cầu mưa và công nhận, phù hộ cho con cháu mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa, nhà nhà no ấm. Ban đêm lại diễn ra màn múa cao trào nhất của lễ hội Cầu mưa. Các thầy dùng gậy, kiếm, đao để múa, mặt nạ không được dùng múa trong màn này. Màn cũng này có điệu múa gà độc đáo. Gà ở đây là gà thật để múa và dâng lễ.
Mỗi vị thần tới dự đều được dâng cúng lễ một con gà. Những con gà này đều do các thầy cầm múa. Các thầy phụ lễ cầm gà múa khắp lán thờ nhằm nhặt hết xấu xa. Đội hình múa theo hình vòng tròn, mỗi vòng múa động tác khác nhau như múa dứ mổ, múa để gà trên đầu gối nhảy lò cò, múa cầm gà ngang lưng, múa dâng gà lên cao, mỗi động tác múa ba vòng. Kết thúc múa gà là điệu trống đổ hồi chín tiếng, tượng trưng gà vỗ cánh bay cao, bay xa, mang xấu xa đổ ra sông, ra biển.
Màn cúng có ý nghĩa quan trọng nhất trong lễ hội là cúng lấy dòng làm nước, đánh dấu sự thành công của lễ hội. Khi hai thầy ngồi trên đài, ở phía dưới bà con dân bản sẽ lấy cỏ, cây đốt thành ngọn lửa. Hành động có ngụ ý hăm dọa, nếu không lấy được con dòng về làm nước sẽ tiếp tục đốt lửa thiêu cháy con dòng.
Màn này diễn ra trong hai tiếng, thường thì sau khoảng thời gian đó sẽ có mưa thật. Nhưng đợi mãi trời không mưa, họ làm một dòng nước giả tưới đều khắp giống như có mưa tới. Khi có mưa, tất cả mọi người cùng hô to “Có mưa rồi”. Như vậy có nghĩa là Ngọc Hoàng đã nghe thấy lời cầu khấn của thần dân dưới hạ giới, sai thiên lôi tạo mưa cứu giúp dân bản. Ơn Ngọc Hoàng, thần linh, tổ tiên phù hộ cho mưa xuống, gia chủ mổ lợn, gà làm lễ vật tạ ơn. Một con lợn được mổ ra chia làm nhiều phần, làm lễ cúng, khấn dâng lễ vật tạ ơn đến từng vị.
“Bung Lổ” là lễ hội Cầu mưa đặc sắc của người Dao Họ xã Đông An (Văn Yên) cần được bảo tồn và gìn giữ./.
4.Lễ Tằng Cẩu của người Thái Đen
Một tục lệ không thể thiếu của các cô gái Thái Đen Mường Lò Văn Chấn, Nghĩa Lộ (Yên Bái) trước khi về nhà chồng, phải tiến hành nghi Lễ Tằng Cẩu để rũ đi những vẩn đục của quá khứ, được nhẹ nhàng, thanh sạch, bước vào một cuộc sống mới.
Cô dâu được búi tóc ngược lên đỉnh đầu trong lễ Tằng Cẩu, để thông báo cho mọi người biết mình đã có chồng. Lễ Tằng cẩu được thực hiện theo từng bước rất cụ thể, chặt chẽ và độc đáo.
Lễ vật nhà trai chuẩn bị cho cô dâu gồm: 1 sải khăn piêu, khít, đôi vòng tay và hoa tai bạc, nhẫn vàng hoặc bạc, trâm cài tóc, chiếc gương nhỏ, chiếc lược sừng và 1 lọn độn tóc đem sang nhà gái tặng cô dâu.
Trong ngày làm lễ Tằng cẩu, nhà trai cử một đoàn sang nhà gái gồm những thiếu nữ trẻ đẹp và các thiếu phụ khỏe mạnh, tháo vát, am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán và thông thạo động tác búi tóc ngược cho cô dâu mới. Phía nhà gái cũng có số người tương ứng, trong đó có hai thiếu nữ làm phù dâu, thường là bạn thân của cô dâu.
Các bước tiến hành lễ, trước tiên là phần gội đầu cho cô dâu, hai cô gái phù dâu sẽ giúp cô dâu xoã tóc và gội đầu bằng Nặm Khảu má (nước ngâm gạo nếp) đựng sẵn trong ống tre nứa cùng với nước đun lá bưởi, lá xả, tre ngà, hương nhu, long não. Bởi người Thái Đen tâm niêm dưới làn nước trong mát của dòng suối, nước suối sẽ cuốn trôi đi tất cả những gì mòn cũ của ngày quá khứ và để được nhẹ nhàng, thanh sạch bước qua một cuộc sống mới. Sau khi, gội đầu xong, cô dâu sẽ vấn tóc quanh đầu rồi cùng chúng bạn trở về bản.
Từ chân cầu thang, cô được đón rước và bước chậm rãi từng bậc lên nhà sàn. Đến Tang chan (ngoài sàn) cô ngồi vào giữa một hàng ghế mây, hướng về phía mặt trời mọc. Hai thiếu nữ phù dâu cùng phụ nâng khay đựng đồ trang sức do nhà trai mang sang.
Tiếp đó, Nai cẩu (người được chọn để Tằng cẩu cho cô dâu) đứng ở phía sau lưng cô, nhẹ nhàng chải tóc rồi dùng hai tay vuốt ngược tóc từ phía sau gáy lên kèm theo lọn tóc độn và búi cuốn chặt lại từ trái sang phải hoặc ngược lại. Khi búi tóc đã hoàn chỉnh. Nai cẩu khẽ nâng chiếc trâm bằng bạc xuyên búi tóc để giữ cho cẩu không thể xổ rối tung và chiếc trâm bạc xinh xắn nổi bật trên nền đen óng mượt của búi tóc cô dâu mới.
Khi lễ Tằng Cẩu xong, Nai cẩu khẽ hát những lời dặn dò yêu thương và chúc mừng hạnh phúc cho tình yêu đôi lứa “Mái tóc dài, chải cho mượt/ Búi ngược lên thành “Tằng cẩu”/ Từ nay về sau, người đã có chồng/ Nước không đổi dòng/ Lòng không đổi hướng, con ơi”.
Lễ Tằng cẩu được người Thái đen coi trọng, bởi nó để lại dấu ấn quan trọng trong suốt cả cuộc đời người phụ nữ dân tộc này.
Dân tộc Thái có vốn văn học cổ truyền quý báu với kho tàng thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao…cùng nhiều điệu múa (khắp) độc đáo: xoè Thái, múa sạp. Và một nét văn hóa độc đáo, làm nên nét riêng có của núi rừng Tây Bắc chính là Lễ Tằng Cẩu của người Thái Đen./.
5. Lễ hội Hoa Ban – Mường Lò
Vùng Mường Lò tỉnh Yên Bái là nơi tập trung đông đồng bào dân tộc Thái sinh sống và có nhiều phong tục, lễ hội, các tục cúng giỗ đặc sắc. Bên cạnh những lễ hội như: Rằm tháng Giêng, Tết Síp xí, Xên bản, Xên Mường…, lễ hội Hoa ban là một hoạt động văn hóa khá tiêu biểu của vùng đất và cuộc sống tinh thần của người Thái Mường Lò. Hội Hoa ban là ngày vui của họ hàng, của bản, mường và là dịp cho trai, gái gặp gỡ, hò hẹn. Cứ đến ngày 5/2 âm lịch hàng năm, lễ hội Hoa ban được tổ chức. Địa điểm tổ chức thường là ở hang Thẳm Lé.
Lễ hội Hoa ban hàm chứa ý nghĩa cầu phồn thực của cư dân nông nghiệp miền núi, với tâm nguyện thỉnh bái “Then” – vị thần tối cao trong hàng ngũ thánh thần theo quan niệm của người Thái; thỉnh bái “Nàng Ban” – một nữ nhân vật huyền thoại biểu thị cho sự trinh trắng của thiếu nữ Thái và tình yêu đôi lứa thủy chung; thỉnh bái ma trời, ma đường, ma núi, ma sông… phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, vạn vật đơm hoa, kết trái, cho lứa đôi hạnh phúc và cuộc sống của dân bản yên vui.
Truyền thuyết của người Thái kể rằng: nàng Ban là một cô gái xinh đẹp nhưng bị bệnh đậu mùa, nàng không lấy chồng mà lên hang Thẳm Lé (nay thuộc xã Sơn Thịnh, huyện Văn Chấn) sinh sống. Cuối cùng, nàng kiệt sức ở đó. Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một cây hoa mang búp trắng như búp tay người con gái và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp vùng Tây Bắc. Hằng năm mỗi độ xuân về, hoa nở trắng núi rừng và người ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban.
Lễ vật trong nghi lễ là thịt lợn. Người Thái quan niệm lợn là con vật thông minh, có thể làm trung gian giao tiếp với các thần linh để thỉnh cầu những ước nguyện của dân bản; đồ lễ gồm có: đầu, đuôi, bốn chân, xương thịt, lục phủ, ngũ tạng, mỗi thứ một gói và trong số lễ vật để dâng tế thì rượu là đồ lễ không thể thiếu được.
Lễ hội gồm hai phần: phần lễ để cúng thần linh, phần hội để tạo nên những tiếng cười sảng khoái nhằm giáo dục con người vươn tới cái đẹp. Toàn bộ phần nghi lễ được thực hiện ở ngoài cửa hang, sau đó thầy mo vái “Then” xin mở cửa hang thì phần hội lúc đó mới diễn ra cả bên trong và bên ngoài hang.
Sau lễ cúng, bà con dân bản được vào hang dự tiếp phần hội. Nội dung của phần hội chủ yếu là khắp giao duyên theo điệu han nê. Sau đó là các trò chơi hái hoa, múa xòe và ném còn. Các chàng trai giúp các cô gái hái những bông hoa trắng muốt đem về nhà. Hoa ban còn là món ăn độc đáo trong văn hóa ẩm thực của dân tộc Thái. Món hoa ban nấu với gạo nếp thành xôi cho hương vị đậm đà, ngào ngạt hương thơm. Khi hoàng hôn buông cũng là lúc kết thúc các trò chơi trong lễ hội. Các chàng trai, cô gái vừa đi vừa nói những lời chia tay nhau đầy lưu luyến, hẹn đến mùa xuân mới, khi ban nở trắng đồi sẽ lại gặp nhau…
6.Lễ hội Đền Mẫu Thác Bà
Đã thành thông lệ, cứ vào ngày 9 tháng giêng âm lịch hàng năm, đông đảo bà con nhân dân cùng du khách thập phương lại nô nức về dự hội Đền Mẫu Thác Bà thuộc thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. Tương truyền từ thời các vua Hùng, có nàng công chúa tên gọi Minh Đạt được cắt cử trông coi vùng sông Chảy Thác Bà, dạy dân khai khẩn đất hoang, trồng lúa, dệt vải. Khi bà mất được nhân dân tôn kính, lập đền thờ phụng tại Thác Bà.
Cũng như nhiều lễ hội khác, lễ hội Đền Mẫu Thác Bà gồm hai phần chính, là phần lễ và phần hội. Phần lễ với những nghi thức truyền thống trang trọng, mở đầu là phần rước kiệu. Phần rước được chia làm ba hướng, hướng thứ nhất là rước kiệu hoa, kiệu võng và kiệu bát cống; hướng thứ hai là rước lễ vật gồm 8 mâm từ hồ xanh lên gồm chè kho, bánh, hoa quả; hướng thứ ba là rước cá từ Hồ Thác Bà vào. Tiếng trống hội xuân rộn rã thúc giục, làm bừng lên không khí nhộn nhịp của cả vùng. Người người tấp nập đội lễ ra đền thành tâm cung kính, gạt bỏ hết mọi điều ác để hướng thiện. Sau phần rước kiệu là lễ tế mẫu, lễ dâng hương kính mẫu, lễ dâng hoa, dâng quả, lễ dâng tửu… Tất cả mọi nghi lễ rước, tế, dâng hương đều nói lên tấm lòng thành kính, biết ơn của dân làng đối với người xưa.
Sau phần lễ nghiêm trang là phần hội sôi nổi và vui nhộn với các trò chơi dân gian như: kéo co, đẩy gậy, chọi gà, ném còn, cờ tướng v.v…Những hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm màu sắc dân gian đã tạo cho ngày hội của nhân dân vùng hạ lưu sông Chảy thêm sống động và thực sự là nơi giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Kinh, Tày, Nùng trong vùng. Các trò chơi trong hội không chỉ thể hiện sự khéo léo, tài trí và thông minh mà còn toát lên tính tập thể, tinh thần cộng đồng cao.
Lễ hội Đền Mẫu Thác Bà hội tụ sắc thái văn hóa của cư dân bản địa lâu đời, mang nhiều yếu tố tín ngưỡng tiến bộ.