Có một số quốc gia đã lấy tên người tìm ra hay người giải phóng để lấy tên làm tên quốc gia và dưới đây là danh sách các tên gọi của các quốc gia được đặt tên theo tên của một nhân vật.
1.Nhà nước Israel
Tên “Israel” bắt nguồn từ Kinh thánh Hebrew: Jacob, tổ phụ của dân tộc Do Thái, đã được đổi tên Israel sau khi chiến đấu với Đức Chúa Trời[42]. Theo đó, hậu duệ của Jacob được gọi là “con cái của Israel”, trong tiếng Anh gọi là “Israelites”. Các công dân của nước Israel hiện đại ngày nay, theo tiếng Anh, được gọi là “Israelis”.
Sau khi vua Solomon (973 – 937 TCN) (còn nhiều tranh cãi về niên đại chính xác) mất, Vương quốc Israel Thống nhất bị chia đôi thành: Vương quốc Israel (Samaria) ở miền bắc và Vương quốc Judah ở miền nam. Danh từ Judah được phiên âm Hán ngữ là “Do Thái”. Nước Israel ở phía bắc có thủ đô là Samaria, tồn tại đến năm 721 TCN thì bị Đế quốc Assyria (nay ở miền bắc Iraq) tiêu diệt. Nước Judah ở phía nam có thủ đô là Jerusalem, tồn tại đến năm 587 TCN thì bị Đế quốc Tân Babylon (nay ở miền nam Iraq) tiêu diệt.
2.Cộng hòa Armenia
Tên gốc theo tiếng Armenia là Hayq, sau này Hayastan. Hayasa, gắn với hậu tố tiếng Ba Tư ‘-stan’ (đất đai). Haik là một trong những lãnh đạo kiệt xuất người Armenia và cái tên Miền đất của Haik đã được đặt theo tên ông. Theo truyền thuyết, Haik là chút của Noah (con trai của Togarmah, người là con của Gomer, người là con của Japheth, người là con của Noah), và theo truyền thống cổ Armenia, một tổ tiên của toàn bộ người Armenia. Ông cũng được cho là đã định cư bên dưới chân núi Ararat, đã đi tham gia vào việc xây dựng tháp Babel, và, sau khi quay trở lại, đánh bại vua Babylon là Bel (được một số nhà nghiên cứu cho là Nimrod) ngày 11 tháng 8 năm 2492 TCN gần núi Lake Van, ở phía nam Armenia trong lịch sử (hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ).
Hayq được các nước xung quanh gọi là Armenia, có lẽ nó từng là tên của bộ lạc mạnh nhất sống ở những vùng đất thuở xưa của Armenia, những người tự gọi mình là Armens và có nguồn gốc Ấn Âu. Theo truyền thống, nó bắt nguồn từ chữ Armenak hay Aram (chắt của chắt của Haik, và một lãnh đạo khác, người theo truyền thống Armenia là tổ tiên của tất cả người dân Armenia). Một số học giả Do Thái và Kitô giáo viết rằng cái tên ‘Armenia’ bắt nguồn từ Har-Minni, có nghĩa là ‘Núi Minni’ (hay Mannai). Những lý lẽ ủng hộ Kitô giáo cho rằng Nairi, có nghĩa vùng đất của những con sông, từng là một tên cổ gọi vùng núi của nước này, lần đầu được người Assyria sử dụng khoảng năm 1200 TCN; trong khi văn bản ghi chép đầu tiên được biết tới có tên Armenia, là Bản khắc Behistun tại Iran, có niên đại từ năm 521 TCN.
3.Azerbaijan
Cái tên Azerbaijan được cho là bắt nguồn từ Atropates,vị Satrap (tổng trấn) Media tại đế chế Achaemenid, người đã cai trị một vùng tại Iran Azarbaijan hiện đại được gọi là Atropatene.Cái tên Atropate được cho là có nguồn gốc từ từ tiếng Ba Tư cũ có nghĩa “bảo vệ bởi lửa.” Cái tên cũng được đề cập trong Frawardin Yasht Avesta: âterepâtahe ashaonô fravashîm ýazamaide dịch nghĩa là: Chúng ta thờ cúng Fravashi của Atare-pata linh thiêng.
4.Belize
Belize nằm ở bắc Trung Mỹ, đông giáp biển Caribbean. Nguồn gốc tên nước có hai cách giải thích:
1. Tên nước và cố đô (Thành phố Belize cũng là thành phố lớn nhất Belize) đều lấy từ tên con sông chính Belize chảy trong lãnh thổ. Theo tiếng Pháp, “balise” mang nghĩa “tháp đèn” hay “phao nổi”. Một thuyết khác cho rằng, thành phố được xây dựng trên sông Wallis, tên sông này lấy từ tên nhà thám hiểm Scotland là Peter Wallace chuyển thành, ông đến đây vào năm 1610 và muốn chiếm cả vùng này. Do trong tiếng Tây Ban Nha không có chữ cái “w”, từ đó “Wallis” chuyển thành “Vallis”, đọc ra thành “Balis” hay “Belice”.
2. Năm 1638, một hải tặc Scotland là Peth Valiz đến và chiễm lĩnh vùng này. Về sau, người ta lấy tên của hải tặc này đặt cho vùng, từ đó chuyển thành tên nước là “Belize”.
Cư dân đầu tiên ở đây là người Maya, thế kỷ XVI, trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha. Thế kỷ XVII, người Anh xâm nhập vào. Năm 1862, Anh chính thức tuyên bố Belize là thuộc địa của mình, gọi là “Honduras”. Ngày 1 tháng 1 năm 1964, thực hiện tự trị nội bộ, trở thành thành viên trong Khối Liên hiệp Anh. Năm 1973, đổi thành “Belize thuộc Anh”. Ngày 21 tháng 9 năm 1981, giành độc lập.
5.Campuchia
Campuchia (tiếng Khmer: កម្ពុជា, Kampuchea, IPA: [kɑmpuˈciə], tên chính thức: Vương quốc Campuchia, tiếng Khmer: ព្រះរាជាណាចក្រកម្ពុជា), cũng còn gọi là Cam Bốt (bắt nguồn từ tiếng Pháp Cambodge /kɑ̃bɔdʒ/), là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương ở vùng Đông Nam Á, giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, Thái Lan ở phía Tây, Lào ở phía Bắc và Việt Nam ở phía Đông. Campuchia có ngôn ngữ chính thức là tiếng Khmer, thuộc nhóm Môn-Khmer trong hệ Nam Á. Trước thế kỷ XX, người Việt gọi nước này là Chân Lạp (chữ Hán: 真臘)[6] hoặc Cao Miên (高綿).
Về tên gọi Chân Lạp hoặc Cao Miên, trong sử Việt xưa, danh từ Chân Lạp được dùng để chỉ nước Campuchia thời hậu Angkor, thời các chúa Nguyễn tại Việt Nam. Nhưng thật ra Chân Lạp, tên nước và người, chỉ tồn tại từ thế kỷ thứ VI và chấm dứt vào thế kỷ thứ IX (802). Kế tiếp thời Chân Lạp là thời Angkor với Triều đại đế quốc Khmer kéo dài đến thế kỷ XV. Danh từ thường được dùng nhiều hơn trong lịch sử thế giới khi gọi người Campuchia hoặc các Triều đại Campuchia hậu Chân Lạp cho đến ngày nay là Khmer (Cao Miên) hơn là Chân Lạp (Chenla). Cao Miên có thể dùng để chỉ đế quốc Khmer nói riêng, hoặc nước / người Campuchia nói chung. Nên có lẽ, nếu cần áp dụng tên gọi một cách chính xác, Chân Lạp chỉ có thể áp dụng vào thời kỳ VI đến thế kỷ IX. Cao Miên mới là danh từ thông dụng để gọi nước / người Campuchia xưa, ít nhất là từ sau thế kỷ IX cho đến thời kỳ Liên bang Đông Dương. [cần dẫn nguồn]
6.Colombia
Tên gọi “Colombia” lấy theo tên của Christopher Columbus (Cristóbal Colón tiếng Tây Ban Nha, Cristóvão Colombo tiếng Bồ Đào Nha, Cristòfor Colom tiếng Catalan, Christophe Colomb tiếng Pháp, Cristoforo Colombo tiếng Ý). Nhà cách mạng người Venezuela Francisco de Miranda đã dùng tên này cho toàn bộ Tân Thế giới, nhất là các thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Sau đó, vào ngày 15 tháng 2 năm 1819, Hội nghị Angostura đã thống nhất đặt tên Cộng hòa Colombia cho một quốc gia mới bao gồm lãnh thổ của Tân Granada, Quito và Đại Trấn Venezuela, theo đề xuất của nhà cách mạng Simón Bolivar trong Bức thư từ Jamaica. Năm 1830, khi Venezuela và Ecuador ly khai, phần còn lại của vùng Cundinamarca trở thành một quốc gia, Cộng hòa Tân Granada. Năm 1858 quốc gia này đã chuyển sang thể chế liên bang và đổi tên thành Liên bang Granadine; và sau đó năm 1863 đổi tên thành Hợp chủng quốc Colombia. Năm 1886 quốc gia này đã đổi thành tên như ngày nay: Cộng hòa Colombia. Ban đầu quốc hội hai nước Ecuador và Venezuela đã rất phản đối tên gọi này, cho rằng Colombia đã đơn phương chiếm đoạt một di sản lịch sử chung của cả khu vực, nhưng sau đó cuộc tranh cãi đã nhanh chóng kết thúc.
7.Philippines
Cái tên Philippines được đặt nhằm tôn kính vua Philip II của Tây Ban Nha. Nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Ruy López de Villalobos, trong chuyến thám hiểm năm 1542, ông đã đặt tên cho hai hòn đảo Leyte và Samar với cái tên Felipinas, sau này nó được dùng để chỉ toàn bộ Phillipines. Trước khi cái tên Felipinas trở nên phổ biến, những tên khác như Islas del Poniente (Quần đảo phía Tây), và tên của nhà thám hiểm Magellan trước đó đặt cho hòn đảo San Lázaro cũng được người Tây Ban Nha sử dụng để chỉ Phillipines.
Tên chính thức của Phillipines đã được thay đổi nhiều lần. Trong cuộc Cách mạng Philippines, Quốc hội Malolos đã tuyên bố thành lập Đệ Nhất Cộng hòa Philippines. Từ giai đoạn Chiến tranh Tây Ban Nha- Mỹ (1898) và Chiến tranh Philippines – Hoa Kỳ (1899-1902), cho đến thời kỳ Thịnh vượng chung (1935-1946), các nhà chức trách thực dân Mỹ đã gọi nước này là Quần đảo Philippine, dựa trên một bản dịch tiếng Tây Ban Nha. Sau Hiệp ước Paris năm 1898, cái tên Philippines bắt đầu xuất hiện và nó đã trở thành tên gọi chung của đất nước. Kể từ khi kết thúc Thế chiến II , tên chính thức của quốc gia này là Cộng hòa Philippines