Top 7 lễ hội truyền thống lớn và nổi tiếng nhất ở Thanh Hóa

0
2825
Vật Phẩm Phong Thủy

Mỗi cùng đất trên nước ta đều có những bản sắc riêng với những lễ hội đặc sản vùng miền khác nhau . Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem những lễ hội truyền thống đặc sắc ở Thanh Hóa nhé.

1.Lễ hội Bà Triệu
Lễ hội Bà Triệu được tổ chức vào các ngày 20 – 23/02 âm lịch hàng năm tại xã Triệu Lộc – Hậu Lộc – Thanh hoá. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ tới vị anh hùng Triệu Thị Trinh – người đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống lại ách đô hộ của nhà Ngô vào năm 248.

Lễ hội được tổ chức với quy mô lớn trên một không gian rộng theo quy trình đền, lăng, đình. Các điểm di tích ấy đều diễn ra tế lễ với nghi thức trang trọng vừa truyền thống vừa kết hợp với lễ hội đương đại. Riêng đình làng Phú Điền có tổ chức nghi thức hội “ Ngô, Triệu “giao quân”

Tại đền Bà Triệu chủ yếu là tế lễ, như rước kiệu, tế nữ quan. Trong phần hội không có trò diễn dân gian mà chỉ có Hội trận, khơi dậy, liên tưởng đến hào khí chống quân Ngô của bà..Tiếp sau những đại lễ, rước kiệu…còn có hát chầu văn, một hình thức âm nhạc truyền thống trong ngày lễ rất linh thiêng.

Ngoài các nghi thức lễ trên còn có lễ Mộc dục. Đây là một nghi thức lễ được nhân dân địa phương rất chú ý, thận trọng, chọn ngày tốt để hành lễ, thường là ngày 18, 19 tháng 2 âm lịch ở cả 2 nơi đền và đình làng, do ông từ cả và 3 ông từ phụ chịu trách nhiệm. Tiếp đó là tế Phụng Nghinh. Tế Phụng Nghinh là thủ tục mời vua Bà cùng lục bộ triều đình, hội đồng các quan, thánh tổ bách gia về trong ngày huý kỵ Vua Bà, là ngày rất trang nghiêm và linh thiêng, thời gian tế nửa ngày. Việc rước bóng, trong ngày hội là một thể thức hết sức quan trọng, người ta đặt bát hương Vua Bà lên kiệu cùng với hộp tư trang, đĩa trầu cau. Có 8 chàng trai được chọn lọc, đức độ, sạch sẽ, gia đình không có việc tang, việc xấu. Các chàng trai khênh kiệu (có 8 đòn) mặc áo đỏ cộc tay, thắt lưng màu đỏ đầu chít khăn đỏ, quần trắng, chân đất. Người chủ tế đi dưới gầm kiệu. Tiếp theo có kiệu song loan, trên kiệu có áo chầu và các hộp sắc phong, có 8 người khiêng. Nghi thức đi đầu có một hương án có 2 người vác lọng che hương án, trên kiệu có bát hương, trầu cau hoa quả. Sau hương án là phường bát âm cử nhạc lưu thuỷ, có trống, chiêng và có 32 người thực hiện các nhiệm vụ vác gươm, vác bát bửu, dùi đồng. Cứ như thế các đoàn vác cờ hội, kiệu song loan, người đi cùng đoàn rước kiệu ăn mặc chỉnh tề khăn nhiễu, quần trắng, áo lương. Đạo hành từ đền chính đến Lăng rồi về Đình làng. Đến Lăng kiệu được đặt trên giá đỡ và làm thủ tục nghi thức khấn đức Bà, nhân ngày huý kỵ, với tấm lòng thành kính của các con cháu thập phương nhớ công ơn Bà. Đoàn cử hành về đình làng, kiệu, bát hương bóng Bà đặt giữa đình và tiếp tục tế lễ một ngày một đêm gồm các tế yên vị, tế tam sanh. Sau đó đòn rước tế theo lộ trình về Đình Chính để làm Vua Bà trong hai ngày 22 và 23 tháng 2 âm lịch.

Ngày 23 tháng 2 thuộc vào các ngày chính kỵ, ngày này không tế mà chỉ làm lễ , có một số lễ vật như 100 trứng sống, 100 quả dưa chuột, 3 bát cơm gạo trắng, 3 quả trứng luộc, bánh dày, bánh gai, bánh trưng, bánh mật…

Lễ hội thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, tôn vinh khí phách anh hùng của hậu thế đối với Bà Triệu – người nữ anh hùng của nhân dân Xứ Thanh.


2.Lễ hội Cầu ngư
Lễ hội cầu ngư là lễ hội truyền thống của ngư dân địa phương có từ rất lâu đời được tổ chức hàng năm tại làng Diêm Phố, xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc ), vào cuối tháng hai âm lịch, kéo dài trong 4 ngày, thường được chuẩn bị trước hàng tháng trời với mục đích cầu mong trời yên biển lặng, thuận lợi cho mùa vụ đánh bắt cá trong năm.

Mở đầu là Lễ rước thuyền Long Châu (một lễ vật quan trọng nhất trong lễ hội cầu ngư) từ thôn Bắc Thọ vào sân vận động xã, được bà con tổ chức trang nghiêm bày tỏ tình đoàn kết giữa các vạn chài, mong thần linh chứng giám lòng thành của ngư dân ngoài biển.

Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, các dòng họ trong xã đến trước thuyền Long Châu cầu khấn mong cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, cầu một mùa đánh bắt hải sản thắng lợi, đời sống ngư dân ấm no hạnh phúc.

Tiếp theo là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, thể dục thể thao sôi nổi, mang đậm nét văn hoá truyền thống vùng biển như: thi câu mực, kéo lưới, thi cờ tướng, hát giao duyên, biểu diễn nhạc lưu thuỷ…

Trước khi kết thúc lễ , Ban tổ chức sẽ “hoá vàng” chiếc thuyền Long Châu, gửi về biển cả, để các thần linh của biển chứng giám lòng thành và che chở cho ngư dân một năm “trời yên bể lặng”, tôm cá đầy thuyền.

Từ năm 2005, lễ hội này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Lễ hội Văn hoá phi vật thể.


3.Lễ hội Lam Kinh
Lễ hội Lam Kinh được tổ chức hàng năm vào ngày 22 tháng 8 âm lịch (ngày giỗ của vua Lê Thái Tổ) tại khu vực Lam Kinh thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá nơi an táng vua Lê Thái Tổ. Nơi đây, ngày trước, theo định lệ, cứ ba năm một lần, vào ngày giỗ vua, các vua quan nhà Lê ở Ðông Kinh (Thăng Long) lại về Lam Kinh làm lễ. Còn nhân dân địa phương hàng năm vẫn mở hội tưởng nhớ, tôn vinh ngư­ời anh hùng dân tộc này.

Lễ hội Lam Kinh được tổ chức ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà vào ngày 22/8 (âm lịch) năm Quý Sửu (1433) và thi hài được đưa về an táng tại đất Lam Sơn. Vùng đất này còn là nơi an táng của các vua, hoàng hậu triều Lê Sơ và trở thành sơn lăng của nhà Lê Sơ. Ðể thuận lợi cho việc cáo yết tại lăng miếu, các triều vua đã cho dựng điện và các tòa Thái miếu để thờ cúng. Vì vậy, Lam Sơn được gọi là Lam Kinh.

Từ 1995 đến nay, lễ hội Lam Kinh được tổ chức thường xuyên hằng năm với quy mô hoành tráng. Phần lễ được thực hiện theo đúng nghi thức cổ truyền, tái hiện nhiều sự kiện trọng đại thời Lê như: Màn trống hội (biểu diễn đánh trống đồng và trống da các loại), cờ hội, rước kiệu; đặc biệt là những nghi thức tế lễ từ thời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông truyền lại.

Phần hội sẽ là các chương trình nghệ thuật tái diễn các sự kiện như: Hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu chúa, giải phóng thành Đông Quan, Vua Lê Thái Tổ đăng quang, Phát huy hào khí Lam Sơn…

Trong các ngày diễn ra lễ hội còn có những trò chơi, trò diễn truyền thống của xứ Thanh như: trò Xuân Phả, trò Chiêng, trò Sanh Ngô, dân ca Đông Anh, dân ca sông Mã, thi đấu vật, đấu võ dân tộc; hội trại các làng văn hoá; trưng bày các hiện vật, cổ vật thời Lê; trưng bày giới thiệu tiềm năng du lịch và sản phẩm ẩm thực của địa phương và nhiều hoạt động nghệ thuật khác như chiếu phim, biểu diễn chèo, chương trình ca nhạc tân cổ giao duyên…

Lễ hội mang đậm nét văn hóa dân gian truyền thống tạo nên dấu ấn của một vùng đất anh hùng đồng thời góp phần bảo tồn nền văn hoá của dân tộc.


4.Lễ Hội Mai An Tiêm
Lễ hội Mai An Tiêm diễn ra từ ngày 12-14/3 âm lịch hàng năm, tại Đền thờ Mai An Tiêm, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức lễ hội để tưởng nhớ, tri ân Mai An Tiêm, người có công khai phá, mở mang bờ cõi, thủy tổ của nghề canh nông cho dân trong vùng.

Theo truyền thuyết, Mai An Tiêm- nhân vật huyền sử của nước Văn Lang ở vào cuối thời Hùng Vương, là người có công khai phá, xây dựng vùng đất ven biển Nga Sơn, cũng là người “khai sinh” ra quả dưa hấu đỏ. Ông vốn là một nô lệ bị tàu buôn phương Nam bắt làm tặng vật dâng lên Vua Hùng. Nhờ trí thông minh, nhã nhặn, yêu lao động ông được Vua Hùng quý mến tin dùng đặt cho cái tên Mai An Tiêm và ban cho một người thiếp làm vợ, được bổ làm quan cai quản các nô lệ. Nhưng sau này ông bị các Lạc hầu Lạc tướng ghen ghét, gièm pha, xúc xiểm nên nhà vua nghi ông, khép vào tội phản nghịch, đày ra sống ngoài đảo xa.

Tương truyền, chính lúc ông cùng gia đình bị đày ra sống ở trên hòn đảo xa ngoài khơi (nay thuộc vùng biển huyện Nga Sơn), nhờ loài chim biển từ phương Tây bay tới đảo ăn trái nhả hạt mà Mai An Tiêm đã tìm ra giống dưa quý. Vào vụ thu hoạch, Mai An Tiêm lấy que vạch lên vỏ quả dưa rồi đem thả xuống biển, với hy vọng những con sóng sẽ đẩy chúng vào bờ. Cách “tiếp thị” độc đáo ấy của Mai An Tiêm đã được đất liền đón nhận, họ xem như đấy là tặng vật của Thượng đế. Nhờ có thông tin, sau đó ít lâu ông cùng gia đình đã được Vua Hùng minh oan, đồng thời sai cả đội thuyền ra đảo đón Mai An Tiêm về và phục chức.

Để nhớ ơn Mai An Tiêm, người dân Lạc Việt đã tôn ông là “Bố Cái Dưa Tây”. Hiện chỗ gia đình ông sống nơi đảo xa người ta vẫn còn gọi là bãi An Tiêm. Giống dưa quý ruột đỏ ấy gọi là dưa đỏ, sau này gọi là dưa hấu. Hình ảnh Mai An Tiêm và sự tích quả dưa hấu là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta trong buổi đầu dựng nước.

Phần Lễ gồm: Rước kiệu, dâng hương, lễ tế.

Phần hội phong phú, hoành tráng, màn nghệ thuật sân khấu hóa, có ý nghĩa sâu sắc, tái hiện lại cảnh Mai An Tiêm bị khép tội phản nghịch cùng gia đình bị đày ra đảo xa…; cảnh Mai An Tiêm gắn với sự tích quả dưa hấu, được vua minh oan, gia đình đoàn viên…; tri ân Mai An Tiêm – người có công mở mang bờ cõi, thủy tổ nghề canh nông…

Lễ hội Mai An Tiêm – một lễ hội văn hóa, lịch sử giàu truyền thống, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền bối đã có công gây dựng, gìn giữ và bảo vệ non sông đất nước. Lễ hội cũng là dịp để các thế hệ con cháu tri ân, đồng thời, tiếp nối truyền thống lịch sử vẻ vang của cha ông, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, khai thác mạnh mẽ tiềm năng, thế mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.
5.Lễ hội rước thần cá
Lễ hội rước thần cá diễn ra vào mồng 8 tháng giêng hàng năm, tại bản Lương Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện miền núi Cẩm Thủy ( Thanh Hoá) – nơi có suối cá thần kỳ thú, hấp dẫn.

Lễ hội rước thần cá

Lễ hội rước thần cá có từ xa xưa, được đồng bào dân tộc Mường ở xã Cẩm Lương bảo tồn, lưu giữ khá nguyên vẹn cho đến ngày nay. Lễ hội được tổ chức trang trọng, hoành tráng với ước nguyện của người dân địa phương là cầu cho mưa thuận gió hòa, mọi người khỏe mạnh, mùa màng tươi tốt.

Mở đầu lễ hội là phần rước thần cá từ suối Ngọc – nằm dưới chân núi Trường Sinh – đưa về sân vận động của bản để làm lễ khai mạc, báo công với thành hoàng về một năm lao động sản xuất của đồng bào địa phương và những ước nguyện của năm mới. Sau đó, thần cá tiếp tục được đưa ra đền thờ ngay chân núi Trường Sinh để cúng tế.

Sau phần lễ là phần hội với những trò chơi dân gian của đồng bào dân tộc Mường bản địa như ném còn, chơi đu, đẩy gậy, kéo co và nhiều hoạt động văn hóa – văn nghệ, thể dục thể thao như hát Xường, ru Mường, thi đấu bóng chuyền, cầu lông.

Suối cá thần Cẩm Lương là hiện tượng thiên nhiên kỳ thú có từ hàng trăm năm nay bên chân núi Trường Sinh, thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện miền núi Cẩm Thuỷ (cách trung tâm TP Thanh Hoá gần 100 km về phía Tây Bắc).

Huyền thoại về suối cá thần

Huyền thoại kể rằng: Ngày xửa, ngày xưa, nơi bản Ngọc thời khai thiên, lập địa, vào một năm nọ, thời tiết khắc nghiệt, hạn hán quanh năm, người dân túng đói vô ngần. Một hôm, có hai vợ chồng trong bản hiếm muộn con đi làm đồng vô tình nhặt được một quả trứng có hình thù lạ. Người vợ đem quả trứng ra suối Ngọc thả xuống nước, nhưng lạ thay, khi nhấc tay lên người ấy lại thấy quả trứng đang trên tay mình.

Hai vợ chồng quyết định đem quả trứng lạ đặt vào ổ gà đang ấp, quả trứng nở ra một con rắn. Sợ quá, người chồng đem con rắn ra suối Ngọc thả, nhưng cứ đến tối con rắn lại về ở với gia đình này. Sau đó họ đã để con rắn ở lại sinh sống với mọi người.

Lạ thay, từ đó đồng ruộng của bản đủ nước cày cấy, đồng bào sống trong no ấm, hạnh phúc. Chàng rắn ấy trở thành vị cứu tinh của bản nên được mọi người hết lòng tôn kính. Rồi một hôm định mệnh, trời nổi cơn giông, sấm chớp đùng đùng. Sau cơn giông, dân bản thấy xác chàng rắn nằm bên chân núi Trường Sinh, đầu hướng về bản Ngọc.

Thương tiếc chàng rắn, dân bản chôn cất chàng bên chân núi, lập đền thờ gọi là Ngọc Từ. Trong một buổi tế lễ, đồng bào bản Ngọc được thần báo mộng chàng rắn chết là do quyết chiến với thuỷ quái để bảo vệ dân bản. Sau này chàng rắn được phong thần gọi là: Tứ Phủ Long Vương. Từ đó, ở suối Ngọc bên chân núi Trường Sinh xuất hiện đàn cá thần hàng nghìn con luôn quây quần chầu trước đền Ngọc Từ để hầu hạ chàng rắn.
Bên cạnh suối cá thần, xã Cẩm Lương hiện đang còn giữ được nguyên vẹn hệ thống rừng nguyên sinh với các loài động, thực vật đặc trưng của vùng nhiệt đới, thuộc dãy núi đá vôi Pù Luông – Cúc Phương. Đồng bào dân tộc Mường nơi đây với những nếp sinh hoạt văn hoá truyền thống như: dệt thổ cẩm, uống rượu cần, múa Pồn Pông… sẽ là điểm nhấn để thu hút du khách. Đặc biệt, dọc dãy núi Trường Sinh hiện còn có nhiều hang động nguyên sơ chưa được khám phá./.


6.Lễ hội bánh dày – bánh chưng
Lễ hội bánh dày – bánh chưng diễn ra hàng năm từ ngày 11-13/5 âm lịch, tại Sầm Sơn – Thanh Hoá. Đây là lễ hội gắn với tục thờ tổ nghề dệt xúc và thờ thần Độc Cước của nhân dân địa phương, cầu cho mùa màng tươi tốt, nhân khang, vật thịnh, mưa thuận, gió hoà.

Mở màn, là lễ rước kiệu diễu quanh các đường phố chính rồi về tề tựu tại khu vực sân Đền Độc Cước để chuẩn bị cho phần nghi lễ chính thức .

Tiếp đó là phần lễ tế, đọc chúc văn tưởng nhớ công đức của tiền nhân, tiên tổ đã có công khai phá và xây dựng vùng đất Sầm Sơn, cầu cho mưa thuận gió hòa, sóng yên biển lặng, tôm cá đầy khoang.

Sau phần nghi lễ, đông đảo nhân dân và du khách thập phương đã được chứng kiến phần hội tưng bừng với màn đi cà kheo, thi kéo co…

Phần đặc sắc nhất trong lễ hội là cuộc thi làm bánh dày giữa 7 làng của thị xã Sầm Sơn. Những chiếc bánh dày có đường kính 30 cm, bánh chưng mỗi cạnh 40cm được chuẩn bị công phu từ khâu chọn gạo, đậu, thịt, lá gói đến kỹ thuật chế biến, được đặt trang trọng trên những chiếc kiệu cùng dân các làng đưa về tế lễ ở khu vực đền Ðộc Cước.

Sau nghi lễ những chiếc bánh chưng – bánh dày được các làng cùng nhau chấm giải để lựa chọn bánh làng nào ngon nhất. Lễ hội kết thúc, bánh được mang về chia cho dân trong làng cùng hưởng lộc để trong năm gặp nhiều may mắn./.
7.Lễ hội Pôôn Pôông
Lễ hội Pôôn Pôông của người Mường được tổ chức hằng năm vào các ngày rằm tháng Giêng, rằm tháng Ba và rằm tháng Bảy, hay mùa gặt gọi là lễ hội mùa mừng cơm mới.

Lễ hội Pôồn Pôông theo quan niệm của người Mường là lễ cầu chúc cho mối tình chung thủy của Nàng Ờm – Bồng Hương và cũng là dịp về Mường vui vầy cùng các nam thanh, nữ tú. Hình thức nghệ thuật diễn xướng tinh tế này đã tạo nên nét riêng biệt của cộng đồng người Mường, cuốn hút người xem hòa mình vào các trò chơi, trò diễn dân gian.

Chủ của lễ hội là Ậu Máy và các nhân vật như: Enh chàng – Bông danh, nàng Choóng long – Đồng thiếp, Nàng Quắc – cô nàng lắm lý lẽ, vẽ công, vẽ việc cùng tham gia diễn trò.

Pôồn Pôông (tiếng Mường là cuộc chơi hoa) xuất phát từ sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường. Lễ hội và các trò diễn xướng đều xoay quanh cây bông, mô phỏng toàn bộ những phong tục, tập quán, phương thức lao động sáng tạo, phản ánh đời sống tâm linh, văn hóa tinh thần của đồng bào Mường. Lễ hội gồm có 48 trò đặc sắc, như: trò chia đất, chia nước, dựng nhà, săn đuổi thú dữ, trồng tỉa lương thực, chọi gà, chọi trâu, đấu vật, đánh cá, múa bông – bói bông, làm cơm mời Mường, mời bạn ăn cơm dam, uống rượu cần…

Cây bông – vật trung tâm trong lễ hội, là biểu tượng của vũ trụ bao la, hội tụ đầy đủ vạn vật mà tạo hóa đã ban cho con người từ thủa hồng hoang. Trên cây bông bằng tre, cao khoảng 3m, treo 5 hoặc 7 tầng những chùm hoa bằng gỗ bấc nhuộm muôn sắc màu xanh, đỏ, tím, vàng rất bắt mắt; và các mô hình muông thú (chim, cá), nông cụ sản xuất (cày, cuốc), những thành quả chế tác của con người như: bánh chưng, vò rượu, cồng chiêng, quả còn, hòm vàng, hòm bạc tượng trưng cho ấm no, thịnh vượng. Cây bông này chỉ có bà Máy mới làm được và truyền nghề lại cho một vài người khéo tay trong làng, xã.

Dưới gốc cây bông, Enh chàng và nàng Chóng long ngồi đối xứng qua cây bông, trùm khăn đỏ khăn xanh, lúc múa hát, lúc lại soi gương chải đầu, lúc thổi sáo ôi! Nhạc cồng chiêng, tam pu nổi lên rộn rã, bà Máy vừa đi vừa nhảy múa vừa hát Đang:

“Em gái xinh xinh chóng long đồng thiếp ơi!

Em ở đất mường trời cao cao

Đêm nay, em xuống cùng anh.

Chơi bông, chơi hoa em hỡi…”.

Ấn tượng nhất là những điệu múa cùng tiếng cười “hớ hớ hơ!… hớ hớ hơ! của bà Máy cứ vang lên lảnh lót như tiếng chim ca, giục giã, mời gọi, thổi bùng không khí lễ hội rộn rã. Bà Máy như thầy cúng, là người dẫn chuyện kể lại giai thoại sinh ra trời đất, lập bản Mường…; thông báo với thần linh năm nay vụ mùa thắng lợi, làng mở hội mừng cơm mới, thể hiện tấm lòng biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa, bông lúa nhiều hạt, bắp ngô vừa to vừa mẩy. Bà kể bằng ngôn ngữ văn vần như trong lễ diễn xướng dân gian, vừa kể vừa nhảy múa. Mỗi khi kể đến giai thoại nào là các nam thanh nữ tú biểu diễn các trò mô phỏng hoạt động đó, như: cảnh dân làng đuổi hổ dữ, bắt cá, chọi gà, chọi trâu, trai gái vào hội bói hoa…

Ở Thanh Hoá, vùng nào có người Mường ở là có lễ hội Pôồn Pôông. Lễ hội diễn ra có thể từ tối đến sáng, từ sáng đến tối, có khi kéo dài tới hai ngày ba đêm. Đã từng có thời, lễ hội đặc sắc này bị mai một. Từ khi tỉnh Thanh Hóa liên tục 2 năm tổ chức một lần Liên hoan văn hóa các dân tộc miền núi Thanh Hóa (năm 1987), đã làm sống lại lễ hội dễ làm say đắm lòng người này.

Ai đã từng đến với Lễ hội Pôồn Pôông của người Mường ở Thanh Hóa cũng đều mê đắm những lời ca, điệu múa hòa trong tiếng cồng, chiêng giục giã, mời gọi, thôi thúc…

Các Bài Hay Nên Xem Khác

Vật Phẩm Phong Thủy

BÌNH LUẬN